Thứ Tư, 26 tháng 12, 2007

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm



Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1586)



Người được dân gian truyền tụng và suy tôn là "Nhà tiên tri" số một của nước ta là Trạng Trình, vì ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình". Một điều khá lý thú là cách đây ngót 500 năm, ngay trang đầu của tập "Trình tiên sinh quốc ngữ" của Trạng Trình có ghi: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Ông đã khẳng định nước ta tên là Việt Nam. Một sự tiên đoán vô cùng chính xác.Trạng Trình mà nhân dân thường gọi chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm, tên huý là Văn Đạt, vì ông đỗ Trạng nguyên, sau được phong là Trình quốc công.Nguyễn Bỉnh Khiêm người làng Trình Tuyền (Trung Am) huyện Vĩnh Lại (nay là Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm quận công Nguyễn Văn Định, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số.



Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) đời vua Lê Thánh Tông, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, tư chất khác thường, một tuổi ông đã nói sõi, lên năm tuổi được mẹ dạy cho kinh sách, truyền miệng cho thơ văn chữ Nôm, ông học đâu nhớ đấy, không quên chữ nào.Lớn lên được theo học cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông đã sáng dạ, thông minh lại nết na, chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi.Vì tình hình đất nước không ổn định nên mãi đến năm Giáp Ngọ (1534), khi 43 tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đi thi, đỗ ngay giải Nguyên, năm sau đi thi Hội, lại đỗ Hội nguyên, đi thi Đình, đỗ ngay Trạng nguyên.



Ông làm quan cho nhà Mạc được tám năm, đến đời Mạc Phúc Hải, thấy triều đình lắm kẻ gian thần, lộng quyền, đục khoét, ông dâng sớ chém mười tám lộng thần đều là những kẻ quyền quý cả. Vua Mạc không nghe. Ông trả lại mũ áo, cáo quan về mở trường dạy học. Ông dựng một cái am nhỏ bên hồ đặt tên là am Bạch Vân và lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ.



Ông vốn là người tha thiết với việc dân, việc nước, song vì triều đình đổ nát, trăm quan hư hỏng, ông không muốn đem thân vào chốn đua chen nịnh hót, dấn mình vào đám bùn nhơ ô uế. Bởi thế phải xa lánh công danh vê quê ẩn dật, ông vẫn đem hết tài trí và tâm huyết truyền cho đám học trò, ngầm mong họ sẽ thay ông giúp đời cứu nước. Nhiều học trò danh tiếng của ông như Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Trương Thời Cử, sau này quả đã nối được chí thầy.



Dân gian truyền tụng nhiều về những câu nói có tính chiến lược của Trạng Trình đã giúp cho các vua chúa thời ông sống được vẹn toàn.



Trước là với vua Lê - chúa TrịnhMạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, đã diệt hầu hết tôn tộc nhà Lê. Sau có cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim khởi binh ở Sầm Nưa (Lào) chống lại nhà Mạc. Nguyễn Kim tìm được một người cháu (hậu duệ của vua Lê Thái Tổ) đem về lập làm vua tức là Lê Trang Tông.



Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền nằm cả vào tay con rể là Trịnh Kiểm.



Năm 1556, Lê Trung Tông (con Lê Trang Tông) mất lại không có con nối ngôi, Trịnh Kiểm trù trừ tìm người dòng dõi nhà Lê nối ngôi, muốn tự mình lên ngôi vua. Không biết nên thế nào cho phải, Trịnh Kiểm bèn bàn với Phùng Khắc Khoan. Phùng Khắc Khoan cũng phân vân, mới sai người đi Vĩnh Lại hỏi thầy mình là Trạng Trình. Nghe người đó trình bày xong, Trạng Trình không nói gì cả, chỉ ngoảnh lại bảo người nhà rằng:



- Năm nay lúa không tốt, vì thóc giống không chắc. Chúng bay nên tìm thóc cũ gieo thì tốt.Nói xong, Trạng chống gậy đi chơi chùa. Khách đi theo, Trạng nói với nhà sư chứ không nói với khách:



- Nhà sư chăm cúng Phật mà ăn oản nhé.Khách về nói lại với Phùng Khắc Khoan. Phùng Khắc Khoan trình bày với Thái sư Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hiểu thâm ý của Trạng Trình khuyên là hãy tôn phò nhà Lê lên làm vua cho thuận lòng dân, bèn sai người đến làng Bố Vệ rước Lê Duy Bang là cháu 6 đời của Lê Trừ (anh thứ hai của Lê Lợi) về lập làm vua, tức là Lê Anh Tông.Sau là với chúa NguyễnTừ khi thay bố vợ là Nguyễn Kim cầm binh quyền, Trịnh Kiểm sợ hai em vợ là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng tranh giành quyền bính, nên đã giết Nguyễn Uông và ngấm ngầm định giết nốt Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng sợ hãi, sai người tìm đến hỏi Trạng Trình xem nên làm thế nào để thoát khỏi âm mưu của Trịnh Kiểm.Được hỏi nhưng Trạng Trình không trả lời ngay, chỉ chống gậy ra sân, ngắm hòn non bộ, nhìn đàn kiến đang "leo núi" mà nói bâng quơ rằng: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dải núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời).Nguyễn Hoàng hiểu ý mới về nói với chị gái (vợ Trịnh Kiểm) xin cho mình vào trấn thủ đất Thuận Hoá. Trịnh Kiểm nghĩ Thuận Hoá là nơi biên cương cùng đường, tuyệt lộ, đất cằn, người thưa, dẫu Nguyễn Hoàng có phản nghịch thì chẹn đường, sai tướng đánh dẹp là xong, còn hơn giết đi thì sợ thất nhân tâm, mà giữ ở lại thì lo ngay ngáy ngày đêm, nên đã đồng ý cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá vào năm Mậu Ngọ (1558).



Không ngờ Nguyễn Hoàng tự nhún mình, khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi về phía Nam, một mặt thần phục họ Trịnh, thỉnh thoảng còn cho người ra Thanh Hoá xin viện binh đánh Chiêm Thành nữa. Đến khi đủ lực lượng, họ Nguyễn mới ra mặt tuyên chiến với họ Trịnh từ năm 1627, gây dựng nên cơ nghiệp các chúa Nguyễn ở Đàng Trong.Rồi với nhà MạcMùa đông năm Ất Dậu (1585), nghe tin Nguyễn Bỉnh Khiêm lâm bệnh nặng, vua Mạc Mậu Hợp cử quan khâm sai về hỏi xin ý kiến Trạng về tương lai. Trạng Trình nói: "Cao Bằng tuy tiểu, khả dung sổ thế" (Cao Bằng tuy nhỏ cũng được vài đời).Quả nhiên sau này bị thất bại, nhà Mạc đã chạy lên Cao Bằng, và còn tồn tại ở đấy được đến năm 1677 mới mất hẳn. Ngày nay ở Cao Bằng có nhiều người dân tộc thiểu số mang họ Mạc, chính là con cháu của nhà Mạc xưa.



***Trạng Trình mất, thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về dự. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, ứng vương đã thay mặt vua truy tặng Nguyễn Bỉnh Khiêm từ tước Trình tuyền hầu lên tước Thái phó Trình quốc công.
Nói về trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm,cũng nên nói về truyền thuyết ông gặp Đức Liễu Hạnh, và bài sấm truyền của ông:




Sấm Trạng Trình:



Vận lành mừng gặp tiết lành



Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu

Một câu là một nhiệm màu

Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

Trải vì sao mây che Thái Ất

Thủa cung tay xe nhật phù lên

Việt Nam khởi tổ xây nên

Lạc Long ra trị đương quyền một phương

Thịnh suy bỉ thới lẽ thường

Một thời lại một nhiễu nhương nên lề

Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngủ

Mở bản đồ rủ áo chấp tay

Ngự đao phút chốc đổi thay

Thập bát tử rày quyền đã nổi lên

Ðông a âm vị nhi thuyền

Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh

Chấn cung hiện nhật quang minh

Sóng lay khôn chống trường thành bền cho

Ðoài cung vẻ rạng trăng thu

Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn

Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật

Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen

Sửa sang muôn việc cầm quyền

Ngồi không ai dể khẳng nhìn giúp cho

Kìa liệt vương khí hư đồ ủng

Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn

Trời sinh ra những kẻ gian

Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài

Áo vàng ấm áp đà hay

Khi sui đấp núi khi say xây thành

Lấy đạt điền làm công thiên hạ

Ðược mấy năm đất lở giếng mòn

Con yết ạch ạch tranh khôn

Vô già mở hội mộng tôn làm chùa

Cơ trời xem đã mê đồ

Ðã đô lại muốn mở đô cho người

Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn

Suốt vạn dân cừu giận oán than

Dưới trên dốc chí lo toan

Những đua bán nước bán quan làm giàu

Thống rủ nhau làm mồi phú quí

Mấy trung thần có chí an dân

Ðua nhau làm sự bất nhân

Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non

Dư đồ chia xẻ càn khôn

Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau

Vội sang giàu giết người lấy của

Sự có chăng mặc nọ ai đôi

Việc làm thất chính tơi bời

Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ

Xem tượng trời đã giơ ra trước

Còn hung hăng bạc ngược quá xưa

Cuồn phong cả sớm liền trưa

Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề

Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết

Ðể vạn dân dê lại giết dê

Luôn năm chật vật đi về

Âm binh ở giữa nào hề biết đâu

Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng

Cũng một lòng trời chống khác nào

Xem người dường vững chiêm bao

Nào đâu còn muốn ước ao thái bình

Một góc thành làm tâm chứng quỷ

Ðua một lòng ích kỷ hại nhân

Bốn phương rời rỡ hồng trần

Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần

Tiếc là những xuất dân làm bạo

Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau

Nhân danh trọn hết đâu đâu

Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

Hùm già lạc dấu khôn về

Mèo non chi chí tìm về cố hương

Chân dê móng khởi tiêu tường

Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình

Nội thành ong ỏng hư kinh

Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang

Bở mồ hôi Bắc giang tái mã

Giửa hai xuân bỗng phá tổ long

Quốc trung kinh dụng cáo không

Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng

Gà đâu sớm gáy bên tường

Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

Thủy binh cờ phất vầng hồng

Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

Ðứng hiên ngang đố ai biết trước

Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?

Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi

Chưa từng thấy đời này sự lạ

Bổng khiến người giá họa cho dân

Muốn bình sao chẳng lấy nhân

Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán

Ðúc tiền ra bán tước cho dân

Xun xoe những rắp cậy quân

Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công

Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ

Lòng báo thù ai dễ đã nguôi

Thung thăng tưởng thấy đạo trời

Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra

Cát lầm bốn bể can qua

Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về

Quân hùng binh nhuệ đầy khe

Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời

Bấy giờ càng khốn than ôi

Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?

Thương những kẻ ăn rau ăn giới

Gặp nước bung con cái ẩn đâu

Báo thù ấy chẳng sai đâu

Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn

Xin những kẻ hai lòng sự chúa

Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân

Cho nên phải báo trầm luân

Ai khôn mới được bảo thân đời này

Nói cho hay khảm cung rồng dấy

Chí anh hùng xem lấy mới ngoan

Chử Rằng lục thất nguyệt gian

Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

Hễ nhân kiến đã dời đất cũ

Thì phụ nguyên mới chổ binh ra

Bốn phương chẳng động can qua

Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi

Bấy giờ mở rộng qui khôi

Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Hoàng phúc xưa đã định tây phong

Làu làu thế giới sáng trong

Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương

Rỏ sinh tài lạ khác thường

Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

Xem ý trời có lòng đãi thánh

Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai

Chọn đầu thai những vì sao cả

Dùng ở tay phụ tá vương gia

Bắc phương chính khí sinh ra

Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai

Song thiên nhật rạng sáng soi

Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường

Ðời này thánh kế vị vương

Ðủ no đạo đức văn chương trong mình

Uy nghi trạng mạo khác hình

Thác cư một gốc kim tinh phương đoài

Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi

Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân

Binh thơ mấy quyển kinh luân

Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu

Ở đâu đó anh hùng hẳn biết

Xem sắc mây đã biết thành long

Thánh nhân cư có thụy cung

Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

Lại dặn đấng tú nam chí cả

Chớ vội vàng tất tả chạy rong

Học cho biết lý kiết hung

Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi

Hễ trời sinh xuống phải thì

Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông

Kìa những kẻ vội lòng phú quí

Xem trong mình một thí đều không

Ví dù có gặp ngư ông

Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng

Xin khuyên đấng thời trung quân tử

Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh

Âm dương cơ ngẩu ngô sinh

Thái nhâm thái ất trong mình cho hay

Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng

Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh

Võ thông yên thủy thần kinh

Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ

Chớ vật vờ quen loài ong kiến

Biết ray tay miệng biếng nói không

Ngỏ hay gặp hội mây rồng

Công danh sáng chói chép trong vân đài

Bấy giờ phỉ sức chí trai

Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình

Nặng lòng thật có vĩ kinh

Cao tay mới gẩm biết tình năm nao

Trên trời có mấy vì sao

Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi

Nước Nam thường có thánh tài

Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường

So mấy lời để tàng kim quỉ

Chờ hậu mai có chí sẽ cho

Trước là biết nẽo tôn phò

Sau là cao chí biết lo mặc lòng

Xem đoài cung đến thời bất tạo

Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau

Nguôi lòng tham tước tham giàu

Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân

Trẻ con mang mệnh tướng quân

Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường

Ai lấy gương vua U thủa trước

Loạn ru vì tham ngược bất nhân

Ðoài phương ong khởi lần lần

Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn

Man mác một đỉnh Hoành Sơn

Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

Ấy là những binh thù Thái Thái

Lòng trời xui ai nấy biết ru ?

Phá điền dầu khỉ cuối thu

Tái binh mới động thập thò liền sang

Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết

Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa

Lưu tinh hiện trước đôi thu

Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh

Loài bất bình tranh mạnh hung hăng

Thành câu cá, lửa tưng bừng

Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm

Chiến trường chốn chốn cát lầm

Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

Sang thu chín huyết hồng tứ giả

Noi đàng dê tranh phá đôi nơi

Ðua nhau đồ thán quần lê

Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương

Kẻ thì phải thủa hung hoang

Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan

Kẻ thì mắc thủa hung tàn

Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình

Muông vương dựng ổ cắn tranh

Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành

Bời bời đua mạnh tranh giành

Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày

Bể thanh cá phải ẩn cây

Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù

Nào ai đã dễ nhìn U

Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn

Cây bay lá lửa đôi ngàn

Một làng còn mấy chim đàn bay ra

Bốn phương cùng có can qua

Làm sao cho biết nơi hào bảo thân

Ðoài phương thực có chân nhân

Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người

Tìm cho được chốn được nơi

Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình

Bốn bề núi đá riểu quanh

Một đường tiểu mạch nương mình dấy an

Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc

Tránh cho xa kẻo mắc đao binh

Bắc kinh mới thật đế kinh

Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào

Chim hồng vỗ cánh bay cao

Tìm cho được chốn mới vào thần kinh

Ai dễ cứu con thơ sa giếng

Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau

Vạn dân chịu thủa u sầu

Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho

Cấy cày thu đãi thời mùa

Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai

Nhân ra cận duyệt viễn lai

Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

Xem tượng trời biết đường đời trị

Gẩm về sau họ Lý xưa nên

Giòng nhà để lấy dấu truyền

Gẩm xem bốn báu còn in đời đời

Thần qui cơ nổ ở trời

Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Sông Bảo Giang thiên định ai hay

Lục thất cho biết ngày dài

Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê

Có thầy nhân thập đi về

Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh

Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp

Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời

Ra tay điều chỉnh hộ may

Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân

Lọ là phải nhọc kéo quân

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng

Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh

Ân trên vũ khí vân hành

Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài

Bản đồ chảng sót cho ai

Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn

Vững nền vương cha truyền con nối

Dõi muôn đời một mối xa thư

Bể kình tâm lặng bằng tờ

Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân

Âu vàng khỏe đặt vững chân

Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

Vừa năm nhâm tý xuân đầu

Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời

Quyển vàng mở thấy sấm trời

Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian

Một thời có một tôi ngoan

Giúp trong việc nước gặp an thái bình

Luận chung một tập kim thời

Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi

Trượng phu có chí thời coi

Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng

Tài nầy nên đấng vẻ vang

Biết chừng đời trị biết đường đời suy

Kể từ nhân đoản mà đi

Số chưa gặp thì biết hoà chép ra

Tiếc thay hiền sĩ bao già

Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công

Thử cho tay giúp ra dùng

Tài này so cùng tài trước xem sao

Trên trời kể chín tầng cao

Tay nghe bằng một ti hào biết hay

Hiềm vì sinh phải thời này

Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời

Hợp đà thay thánh nghìn tài

Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời

Nói ra thì lậu sự đời

Trái tai phải lụy tài trai khôn luần

Nói ra am chúa bội quân

Ðương thời đời trị xoay vần được đâu

Chờ cho nhân đoản hết sau

Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn

Trời xui những kẻ ắt gian

Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay

Vua nào tôi ấy đã bày

Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn

Ðua nhau bội bạn nghịch vi

Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay

Tiếc tài gẩm được thời hay

Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng

Tài trai có chí anh hùng

Muốn làm tướng súy lập công xưng đời

Khá xem nhiệm nhặt tội trời

Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng

Ði tìm cho đến đế cung

Rấp phù xuất lực đế cung được toàn

Bảo nhau cương kỷ cho tường

Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài

Chờ cho động đất chuyển trời

Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng

Còn bên thì náu chưa xong

Nhân lực cướp lấy thiên công những là

Ðời ấy những quỉ cùng ma

Chảng còn ở thật người ta đâu là

Trời cao đất rộng bao xa

Làm sao cho biết cửa nhà đế vương

Dù trai ai chửa biết tường

Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này

Ý ra lục thất gian nay

Thời vận đã định thời nầy hưng vương

Trí xem nhiệm nhặt cho tường

Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy

Vua ngự thạch bàn xa thay

Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng

Gà kêu vượn hót vang lừng

Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò

Nhân dân vắng mạt bằng tờ

Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay

Vua còn cuốc nguyệt cày mây

Phong điều vũ thuận thú rày an dân

Phong đăng hoà cốc chứa chang

Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây

Chính cung phương khảm vần mây

Thực thay thiên tử là nay trị đời

Anh hùng trí lượng thời coi

Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi

Tìm lên đến thạch bàn khê

Có đất sinh thánh bên kia cuối làng

Nhìn đi nhìn lại cho tường

Dường như chửa có sinh vương đâu là

Chảng tìm thì đến bình gia

Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình

Nhìn xem phong cảnh cũng xinh

Tả long triều lại có thành đợt vây

Hửu hổ uấn khúc giang này

Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai

Ở xa thấy một con voi

Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu

Ấy điềm thiên tử về chầu

Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời

Song thiên nhật nguyệt sáng soi

Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu

Ðến đời thịnh vượng còn lâu

Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm

Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam

Muốn làm tướng súy thì xem trông này

Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn

Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn

Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn

Kìa cơn gió thổi lá rung cây

Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây

Tan tác kiến kiều an đất nước

Xác xơ cổ thụ sạch am mây

Sơn lâm nổi sóng mù thao cát

Hưng địa tràng giang hóa nước đầy

Một gió một yên ai sùng bái

Cha con người Vĩnh Bảo cho hay

Con mùng búng tít con quay

Vù vù chong chóng gió bay trên đài

Nhà cha cửa đóng then cài
Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có du phần như ai
Bắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình
Canh niên tân phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị Ngũ dư bình
Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cản tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê củ bắt ngựa tàu
Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an
Bảo Giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân bảo bảo noản
Tứ hải lạc âu ca
Dục đức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
Thất thập cổ lai xuân
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ đổ thái bình
Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi bắc kinh
Kỷ mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
Trư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh

Bảo sơn thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

Thủy trung tàng bảo cái

Hứa cập thánh nhân hương

Mộc hạ châm châm khẩu

Danh thế xuất nan lương

Danh vi Nguyễn gia tử

Tinh bản tại ngưu lang

Mại dử lê viện dưỡng

Khởi nguyệt bộ đại giang

Hoặc kiều tam lộng ngạn

Hoặc ngụ kim lăng cương

Thiên dử thần thực thụy

Thụy trình ngũ sắc quang

Kim kê khai lựu điệp

Hoàng cái xuất quí phương

Nhân nghĩa thùy vi địch

Ðạo đức thực dữ đương

Tộ truyền nhị thập ngủ

Vận khải ngủ viên trường

Vận đáo dương hầu ách

Chấn đoài cương bất trường

Quần gian đạo danh tự

Bách tính khổ tai ương

Can qua tranh đấu khởi

Phạm địch tánh hung hoang

Ma vương sát đại quỉ

Hoàng thiên tru ma vương

Kiền khôn phú tai vô lương

Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng

Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết

Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân

Ta hồ vô phụ vô quân

Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành

Ðoài phương phước điạ giáng linh

Cửu trùng thụy ứng long thành ngủ vân

Phá điền thiên tử giáng trần

Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm

Trần công nai thị phúc tâm

Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du

Tướng thần hệ xuất y chu

Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành

Hiệu xưng thiên hạ thái bình

Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia
(Sưu tầm)

Không có nhận xét nào: