Thứ Tư, 26 tháng 12, 2007

Chuyện nỏ thần 1

Chuyện Nỏ Thần
I
Vương họ Lý, tên ạng Trọng, người Từ Liêm. Thân dài hai trượng ba thước. Khí chất thẳng thắn, dũng mãnh khác thường. Lý Tế Xuyên (Việt Diện U Linh) Cuối đời Hùng Vương có người xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, đất Giao Chỉ, họ Lý tên Thân. Sinh ra rất to lớn, cao hai trượng ba thước. Tần Thủy Hoàng muốn cất quân đánh ta. Vua Hùng bèn đem Lý Thân tiến nhà Tần. Thủy Hoàng mừng lắm, phong làm chức Tư lệnh hiệu úy. Đến khi Thủy Hoàng thôn tính thiên hạ, Lý Thân có công, được Thủy Hoàng sai giữ Lâm Thao ở Trường Thành, uy danh vang dội đến Hung Nô. Sau, tuổi già, Lý Thân về nước, Hung Nô lại sang xâm phạm cửa ải. Thủy Hoàng nhớ Lý Thân, sai người sang triệu. Lý Thân không chịu đi, trốn vào rừng núi. Bấy giờ, An Dương Vương nói dối vua Tần là Lý đã chết. Thủy Hoàng đúc tượng đồng Lý Thân, đặt hiệu lŕ ạng Trọng, dựng ở cửa Tư Mã, kinh đô Hàm Dương. Trong bụng tượng chứa được mấy chục người. Mỗi khi có sứ giả bốn phương đến, vua Tần ngầm sai người chui vŕo bụng tượng, lay cho tượng cử động. Người Hung Nô trông thấy, sợ lắm, tưởng quan Tư lệnh hiệu úy Lý ạng Trọng còn sống, không dám động tới cửa ải.
Vũ Quỳnh và Kiều Phú (Lĩnh Nam Chích quái)
* * *
Hai con voi thình lình nhô lên giữa làn nước đỏ xuộm trước lưỡi cát mỏng đầu bến. Nước nhếnh nhoáng như trát bùn đen nhánh lên mình voi. Không trông rõ được hai người cởi trần trùng trục, đen trũi, ngồi vắt vẻo trên lưng voi. Những ống chân voi đã nhấp nhô ngang mặt nước. Sóng sông ào ào xô vào theo. Đô Lỗ và Đô Nồi cưỡi voi qua sông chơi thăm cố ạng Trọng. M?i ít lâu không sang mà chỗ bến vào xóm nhà cố ạng Trọng, trông đã phong quang hẳn. Vừa như hôm nào, đưa Cao Lỗ ra bến, ạng Trọng bảo:
"Rác rưởi quá! Rác rưởi quá! Chỗ người ở thì phải cơ ngơi ra hồn, không được hôi hám bề bộn hang cày cáo thế này". Quả nhiên, hôm nay đã thấy đổi khác như lời ạng Trọng. Cả một vùng bãi khủyu sông Cái trước mặt, những cây gỗ mục mùa lũ trên ngược trôi về, năm này năm khác, đọng cao như gň. Bây giờ không còn vết tích đâu nữa. Phía trên mớm nước, chỉ thấy sum suê những bụi chuối lá, chuối mắn -tàu dày như chiếc mo cau, xanh ngắt, kéo ngang thân xuống, che những buồng chuối lá gân guốc, những buồng chuối mắn tròn mẫm. Quá vào trong, những bãi ngô, bãi dâu xanh rợn. Liên tiếp xa đến hút mắt vẫn chỉ một màu xanh xanh lẫn lộn những bãi khoai lang dây bò bề bộn như cỏ rối. Những dây lang nổi chằng chịt, lá khoai tốt như lá ráy. Phảng phất, phía bãi nào cũng nghe tiếng hát, tiếng kèn lá chuối trẻ con quấn thổi chơi
-mà không trông thấy người. Cả Đô Lỗ, Đô Nồi cůng tấm tắc trong bụng:
"Cố già ngoài trăm tuổi rồi mà vẫn nói gì làm nấy được!" Đô Lỗ chỉ tay ra vůng bãi khoai lang trước mặt, bảo Đô Nồi:
-Cố già tài thật, mới hôm nào chỉ thấy quạ với diều hâu đậu từng đám tręn đống gỗ mục, bây giờ đă xanh rờn thế kia.
Cố ạng Trọng thọ ngoài trăm tuổi rồi. Mỗi năm, ạng Trọng lại cầm cái mũi lao đồng gạch một vạch đánh dấu tuổi vŕo chiếc mai rùa ở góc nhà. Thật ra, cả Đô Nồi, Đô Lỗ cũng chưa thể đứng hŕng bạn vong niên của ông cố. Mà mới chỉ vào hàng cháu chắt chút ạng Trọng. Từ lúc còn bé, hai đô đă nghe người già kể ngày xưa vùng ta có một tay võ một mình đấu ngã hàng trăm người, đi đường gặp sông thě nhảy qua sông, gặp gò đống nhảy qua gò đống. Hai tay xách hai cái cối đá, lẳng một cái, vỡ đầu cả hai con hổ về lŕng rình bắt lợn. Năm Đô Lỗ ngoài hai mươi tuổi, nghe tin ạng Trọng ở xa về, Đô Lỗ thường đến thăm mừng. Có khi rủ Đô Nồi cůng đi. ạng Trọng hay cůng hai chàng trai trẻ ấy bàn bạc, thật hợp chuyện. Đôi khi lại thử sức võ, tập vật, đánh roi. Trong câu chuyện, trong mọi cách ăn ở, xử sự và tài nghệ, ạng Trọng hợp tính và quý hai người lắm. ạng Trọng thường khoe với khách đến chơi:
“Người được như Đô Nồi, Đô Lỗ không phải thięn hạ sẵn có đâu".
Lần đầu tięn ấy, Đô Lỗ đến lạy mừng ạng Trọng. Đô Lỗ cũng như bao người các cői, cũng như mọi người làng, cả cháu chắt cũng không ai biết mặt ạng Trọng. Nhưng tiếng tài ạng Trọng thì cồn như sóng cả bể Đông. Đâu đâu cũng thŕnh câu chuyện kể đất nước ta có ông tướng đi trấn giữ Trường Thŕnh nước Tần. ạng tướng trấn Trường Thành nước Tần nay đã về quê. Các vùng đồng bãi hai bên sông Cái đồn dậy lên, người người nô nức đến. Rồi tận các cõi Lục Hải, Ninh Hải, Chu Diên, Cửu Chân cũng trảy hội về... Đô Lỗ ở Vũ Ninh về đến bęn kia sông, rồi ngồi nan sang. Từ bến lên, tấp nập đến lạ lùng. Người đánh trâu. Người khiêng lợn. Người gánh rượu. Có người vác ngược cả buồng chuối mắn chín vàng rộm. Vào đến trong xóm, càng rậm rịch. Người các nơi đến mừng ạng Trọng phải làm rạp trú ra tận ngoài bãi. Tiếng cồng sôi như nước vỡ. Ai cũng mừng được vào lạy cố ạng Trọng. Đô Lỗ bước vào, trông lên thấy một cụ già quắc thước. Tóc râu và lông mày bạc trắng. Cố cao lớn khác hẳn mọi người, đến độ trông như không phải người thật. Cố cởi trần, da mồi đỏ hắt. Hai hŕm răng đen rức, vẫn chưa rụng chiếc nŕo. Con mắt cố sáng ngời, hầu như ai nhìn, gặp ánh mắt cố, tự nhiên đã phải vòng tay, ý tứ vào khuôn phép. Đô Lỗ quỳ xuống, lắp bắp:
-Cháu là Cao Lỗ. ạng Trọng cười ha hả:
-A, cháu là Đô Lỗ bên Vũ Ninh đấy à?
Đô Lỗ giật měnh, kính phục đến chỉ biết đứng nép bęn đầu gối ạng Trọng. Không còn nhớ mảy may nào về cái tiếng Đô Lỗ đă mấy năm nay một měnh giữ giải vật đất Vũ Ninh. Nhăng đi, quęn cả mình đương là tay đô đầu giải. Chỉ thấy ra như chú bé bi bô chơi bň quanh chân cụ cố. Đô Lỗ ở lại với ạng Trọng mấy ngŕy, cứ quanh quẩn bên cố như ông cháu. ạng Trọng vui chuyện với Đô Lỗ, có khi nằm chuyện rỉ rả đến khuya. Nghe tiếng vạc đi ăn đęm đă về trong bờ tre, mới chợt nhớ đă tảng sáng. Rồi ạng Trọng chỉ bảo cho Đô Lỗ những miếng vật nňi, và phép đánh roi, bắn nỏ. Đô Lỗ cảm thấy một nỗi sung sướng không biết đấu nŕo đong cho xiết nữa. Quả thực, Đô Lỗ đă nổi tiếng giỏi vật. Đô Lỗ đă nức danh đất Vũ Ninh, như Đô Nồi ở Hương Canh. Đô Lỗ thạo những miếng roi hiểm, Đô Lỗ lại biết cách bật nỏ một máng ra một lúc năm mũi tęn. Nhưng trước ạng Trọng, Đô Lỗ lại tưởng mình chỉ là đứa trẻ ngẩn ngơ. Chẳng phải chỉ là nghĩ thế, mà có điều thật như thế. Những miếng vật ạng Trọng dạy cho, thoạt tưởng dễ, mà cực hóc hiểm. Người vật non chưa từng ngờ ra như thế bao giờ. ạng Trọng đã già lụ khụ. Thế mà khi Đô Lỗ vòng thử cho ạng Trọng ra miếng, tay Đô Lỗ đụng vŕo vóc mình cố già, cứ như xiết vào cây gỗ lim, gỗ chò. Ghê thật. Một hôm, Đô Lỗ thưa với ạng Trọng:
-Cố ơi! Cháu xin rước cố sang Vũ Ninh chơi.
-ừ, thế nào tao cũng phải đi chơi dối già. Nhưng mà từ đây sang Vũ Ninh... Đô Lỗ lại nói:
-Xin cố đừng bận lo lắng đến chuyện đường xá. Cháu sẽ bắt một con voi về rước cố đi chơi. ạng Trọng lại cả cười:
-Hay đấy! Hay! Ngŕy còn trẻ, còn ở nhà, tao đi bắt voi, chỉ mới sang cửa rừng bên kia sông đã gặp voi rồi. Bây giờ nghe nói voi ít ra ăn ven sông nữa, phải không?
-Trong chân núi vẫn còn nhiều.
-ừ, bắt cho tao con voi. Đă bao năm nay chưa được ngồi lęn bành voi. Bắt cho tao con voi.
Đầu můa nắng, đâu đâu cũng nhộn nhịp můa săn, vŕo tận trong rừng. Bấy giờ chưa có mấy mưa rào. Suối còn cạn mà trời đã oi. Voi ở rừng sâu hay ra tụ uống nước ven suối. Từng đàn gấu, đàn nai kéo về quanh làng, ven sông, tìm ăn quả trám rụng. Suốt đęm, tiếng hươu giác gọi nhau, nghe phía nào cũng văng vẳng. Mấy hôm trước, có nắng, trên các đầu sàn nhà, đã thấy phơi từng đống lù lù những cỗ lưới. Rồi sáng sớm, nghe tiếng chó sủa nhũng nhẵng chạy theo người vác lưới đi rừng. Cả làng đeo ống cơm đi suốt ngŕy theo lưới vây bắt hươu, bắt gấu. Ngày nào cũng nghe lệnh chiêng và tiếng tù và đuổi thú vang động khắp các rừng. Những người hôm trước vác lưới vŕo rừng nhắn về nói trông thấy có vết chân voi ra. Vết chân mới -trận mưa nhỏ đęm trước, nước đọng vũng trong những vňng gót to như những trôn đấu ấn xuống mặt đất. Đô Lỗ về Hương Canh, lại rủ Đô Nồi cùng đi săn voi. Můa săn voi cũng lŕ mùa hội săn. Cả đęm, người các xóm thui lợn, nướng cá vui chơi tiễn phường săn. Nhiều người đến xin họp phường cůng đi. Nhưng Đô Nồi bảo thôi. Chuyến nŕy -không nói trước, sợ sái -trong ý định hai người chỉ định bắt một con voi rồi về. Hai người chỉ đem đôi voi nhŕ làm voi mồi đi theo. Lần khác phường sẽ đi đông hơn. Můa săn cňn dài. Mọi thứ đã sắp sẵn. Đô Nồi và Đô Lỗ cưỡi chung một con voi. Chú voi nhỡ lon ton theo sau, lưng chất các thứ vòng song, vòng mây hun, những cuộn da trâu bện thành thừng, những sào dài đầu buộc thòng lọng, những bì cói gạo ngô cùng những ống bương chứa nước mưa, mấy bó tên, cánh nỏ, những chiếc giáo nhọn, móc câu...
Các đồ nghề vŕ thức ăn cho người phường săn ở được dŕi ngày trong rừng thẳm. Nửa đęm ấy, voi và người âm thầm vào rừng Báng ngay đầu Hương Canh. Rồi liền mấy hôm, đi qua rừng Důng, rừng Dó, đến tận rừng Bůi Nhùi sát chân núi mới quay lại. Vẫn chưa gặp được dấu vết có voi về. Trời mưa từ chập tối. Những trận mưa rào đầu mùa. Tiếng mưa tiếng sấm vang như tiếng trống, tiếng cồng khua loạn từ lưng trời xuống bốn phía bóng tối quanh mình. Tiếng sét kéo theo ánh chớp xanh lẹt suốt mặt sông Cái. Những con nước bỗng ngút lên như bốc lửa. Tiếng sấm đuổi nhau từ vòng trời xuống đầu rừng rồi lại chạy xa đi tận đâu. Tiếng mưa sầm sập, rồi lác đác, sau chỉ cňn thánh thót. Nước trên tàu chuối, tàu cọ rích xuống. Hai con voi với Đô Lỗ và Đô Nồi vẫn lặng lẽ đi trong mưa. Voi lů lù như bóng đất nổi lên. Voi cứ đi, voi chưa đến đấy bao giờ mŕ như đă thuộc đường, lůi lũi mãi vào trong. Voi dừng lại trước một tảng đá lớn. Đô Lỗ vŕ Đô Nồi nhảy tręn lưng voi xuống, trèo lên hốc đá. Bóng tối và bóng rừng phủ kín. Đấy cũng là hai người phường săn đi ngủ. Tờ mờ sáng, tiếng vượn hú rin rít khắp vách đá giục nhau xuống rừng kiếm ăn sớm, Đô Lỗ vŕ Đô Nồi đă khoác nỏ, đeo ống tęn, lại cắp theo một bó lao. Hai người từ trong hốc tối lần ra ngoài. Để lại sau lưng hai con voi đứng im như tạc vŕo vách đá.
Hai người trèo lên cây giâu gia cao, bóng trùm cả một vùng xung quanh. Mặt đất mờ mờ. Rồi đến lúc sáng rő hẳn. Trận mưa đęm qua đă quét dọn quang đăng cả. Vừa sáng, mặt trời lên. Các khe lá rậm rạp nhấp nháy nhởn nhơ những vệt nắng mới. Đã trông rõ vết voi đi lằn lối dưới gốc cây giâu gia. Lốt chân vẫn nguyên thành bàn cao cao như những cái thúng nhòi chồng lên nhau. Voi ăn đŕn qua, thấy còn dấu vòi quăng nhổ cây, cây lộn xộn hai bên nghiêng ngả rập xuống. Voi đi hay tìm kết đàn, cứ mỗi lúc đàn một to hơn. Đến rừng này mới vài con đi với nhau, vài hôm sau tới cánh rừng khác đă thêm hàng chục con, có khi hàng trăm, nghênh ngang khắp một vùng. Đàn voi rừng ăn ngoài kia đã đánh hơi được có voi lạ tới -hai con voi nhŕ đứng trong rừng sâu, thế nŕo cũng lần theo vết chân vào.
Sắp tới nơi, lốt chân voi nhà lẫn lốt chân voi rừng. Những con voi ngửi hơi đi těm đŕn. Đến trưa, con voi đầu đă đủng đỉnh đến giữa quăng rừng ấy. Con voi to mốc như tảng đá, những tảng đá biết thũng thĩnh lặng lẽ bước ęm như không. Thỉnh thoảng mới nghe mặt đất, tiếng cŕnh, lá khô, tiếng bùn lép nhép, lắc rắc. Những con voi đă rõ ràng thấy vết chân voi lạ. Một con thả dài vòi xuống mặt bùn, rồi chun lên, như ngửi, như đánh hơi, dò xét. Rồi cả đàn lại thong thả bước theo những lốt chân vào quãng rừng sâu. Một con voi đi lên trước. Những voi đực đầu đŕn lực lưỡng. Cả đŕn theo, lần lượt dọc dài. Voi nào cũng khoan thai, bốn chân khuỳnh chụm vào, bước đều tăm tắp. Đô Lỗ vŕ Đô Nồi vẫn ngồi yęn trên cành giâu gia. Đàn voi đi dưới. Những tấm lưng voi theo nhau rùng rùng nhấp nhô như cả trăm con trăn cůng quăng měnh, cuồn cuộn luồn qua. Giống voi ăn cỏ, ăn quả, ăn lá, không hôi hám nặng můi. Nhưng cả đŕn theo liền, hơi nóng bốc lên rừng rực như suối lửa. Hai người ngồi trên cây mà mồ hôi lưng vã ra. Đàn voi ấy dài quá. Đi một lúc mà trông xuống vẫn thấy lực lưỡng những con voi đực kềnh cŕng. Lại có những con voi con tự dưng quay ngang đợi voi mẹ tới. Rồi những con voi con lại bước theo voi mẹ.
Voi con lũn chũn, đầu đụng vŕo bụng mẹ, chạy loăng quăng, nhấp nhô. Đô Lỗ ngắm một voi con. Con voi nhỏ ấy ước độ ba bốn tuổi, mà đã phổng pháp gồ ghề bằng con trâu mộng. Bước từ tốn, nền nã, lừ đừ. Không như những con voi nhỏ hơn, mới chỉ một hai tuổi, đương chạy líu ríu đằng kia. Con voi nŕy trông vừa mắt quá. Voi này về, đương độ tuổi vực được nhanh, chóng biết sai bảo. Đô Nồi đă chuyền cành cây sang đứng cạnh Đô Lỗ từ lúc nŕo. Vừa lúc voi nhỏ kia đi tới, Đô Lỗ vung tay giơ sŕo, tung làn dây da trâu xuống. Vòng dây xòe tròn, chụp vào đầu voi. Một chân voi cất lên, thòng lọng tròng luôn cả vào. Thoắt cái, vòng song ném xuống với chiếc thòng lọng da trâu đã siết chặt, treo từ cổ xuống chân trước voi. Trong khi Đô Lỗ cong người ra sức co thừng lên, Đô Nồi thoăn thoắt nắm cả cuộn da trâu lẫn dây song buộc quŕnh mấy vòng vào thân cây giâu gia. Con voi đương đi bị đứng lại. Voi cuốn vòi, rứt cái thòng lọng. Nhưng không được. Voi nhảy hai chân trước, rít lên, quật mình đùng đùng vào gốc cây. Cũng vẫn thế. Đàn voi đi trên, thấy động, tán loạn chạy ra cả khu rừng. Đến khi biết rő quãng loạn trong đoàn, tất cả đổ xô lại. Những voi mẹ quăng vňi húc xả vào con voi bị vướng thòng lọng. Những tảng lưng voi đẩy vào nhau, rung chuyển. Nhưng cây giâu gia cổ thụ, rễ cái ăn sâu lắm, không đổ được. Con voi con bị buộc vŕo cây, vùng lên. Chốc chốc, cái cây lại rùng mình, chao đi. Hai người vẫn đứng yên nhìn xuống đàn voi lồng lộn. Cánh nỏ đã căng sẵn, đặt tręn vai. Đô Lỗ giơ tay rút một ngọn giáo phóng xuống. Ngọn giáo phập vŕo sau tai con voi đực vừa xô vŕo. Voi hốt hoảng nhảo ra, cái giáo vẫn cắm chong chỏng. Những con voi khác chen vào. Đàn voi đã trông thấy hai người phường săn trên cây. Voi nhổ đám cây con, voi quơ đá, quăng rŕo vào. Những ngọn lao mũi đồng, những cánh nỏ từ tay Đô Lỗ, Đô Nồi căng vun vút trổ xuống. Những con voi bị trúng lao, trúng tęn chồm lên, khua vòi quật vòi lung tung. Hai người phường săn chĩa nỏ bắn ra tận những con voi cňn đương loanh quanh luống cuống đằng xa.
Lũ voi phía ấy bị những mũi nhọn thình lình cắm vào mình nhảy loạn xạ. Một lát, cả đàn nhốn nháo chạy dồn sang cánh rừng khác. Không con nào dám xông vào gốc cây giâu gia như lúc nãy nữa. Đô Lỗ nhảy xuống, tay cầm thừng dắt con voi chạy, lôi cả thòng lọng lằng nhằng về hang đá. Đŕn voi đằng kia thấy voi chạy, cả lũ lại rầm rập ůa theo. Nhưng, Đô Nồi vẫn cňn ngồi thu mình trên cành giâu gia, đưa nghiêng cánh nỏ nhằm xuống. Lúc này, mới đến việc đánh chặn của Đô Nồi. Những con voi đi đầu bị trúng nỏ. Có phát tęn hiểm xuyên vào con mắt ti hí. Voi quăng vòi lên, đau quá, xô ngược trở lại. Thế là cả đàn nhốn nháo, lại cuống cuồng chạy trở lại. Không voi đàn nào dám đuổi nữa. Hai con voi nhà trông thấy Đô Lỗ dắt con voi bị thòng lọng chạy lại. Đã quen hiệu quen việc rồi, hai voi nọ cung cúc chạy trước. Voi con đeo thòng lọng ở cổ và trên bắp chân trước, trông thấy có voi chạy trước mặt, chẳng biết voi nào, ngỡ voi đàn, càng bồn theo nhanh. Lúc này, Đô Lỗ đă nhảy phắt lên ngồi trên cổ voi. Dường như con voi không biết, vẫn hùng hục chạy. Chẳng mấy lúc đã ra tới quãng bãi trống. Con voi rừng theo hai voi nhà, chạy nhông nhông đến tận lùm tre đầu xóm. Đến đấy, Đô Lỗ nhảy thoắt xuống, dắt voi buộc vào gốc cây đa. Đô Lỗ lại lấy ở đâu ra những vňng thòng lọng song đã vắt sẵn, quàng nốt vào hai chân sau voi. Voi ngã kềnh ra, chưa kịp khua vòi chống cự lại. Voi giãy giụa, lăn lộn. Cả bốn chân đă bị trói chỏng vó. Vòi quật, miệng há hốc, rít in ỉn. Nhưng xung quanh vắng lặng. Hai con voi nhà đã đi vào phía rặng chuối, đứng cong vòi bẻ ăn mấy nải chuối cuối buồng. Con chim bồ các ở đâu toan về đậu tręn ngọn đa như mọi khi, thấy tiếng động lạ dưới gốc, lại bay vổng lęn. Đô Lỗ quay lại nhìn cẩn thận một lần nữa con voi bị trói vào gốc đa rồi về nhà. Hai voi nhà trông thấy Đô Lỗ, vội vã chạy trong bụi chuối ra, lững thững bước sau chủ. Đến trưa, Đô Nồi cũng đă về tới đầu xóm, tay cầm cánh nỏ không. Đô Lỗ đứng đợi dưới lům tre, dáng boăn khoăn. Thấy Đô Nồi, Đô Lỗ hớn hở chạy ra. Đô Nồi giơ chiếc ống tęn rỗng, nói:
-Voi con này chạy, cả đàn nó đuổi theo. Phải bắn xả một loạt. Mấy con đi đầu thủng mặt, thủng tai. Có thế chúng nó mới chịu tan đŕn.
May quá, vừa lúc hết cả ống tên. Con voi rừng bị trói bên gốc đa. Có đến nửa tháng, không một ai ngó ngŕng đến. Những hôm mưa suốt chiều suốt đęm, như trút nước. Hạt mưa quật như roi vụt xuống, voi vẫn phải nằm bốn vó cong queo lên. Ngày nắng rát, chiều đến, nắng xiên khoai. Lưng voi cong lại, giơ ra chịu nắng, không cựa quậy tránh đi được. Voi đói, voi vật vă vòi. Hai bên mép sùi bọt trắng nhả, quánh như bột. Voi khát quá. Con mắt ti hí nhắm nghiền, lử lả. Rồi con voi con chỉ còn thoi thóp đợi chết. Những tiếng rừng xa xôi cứ mơ hồ dần, không nghe được nữa. Nhưng mŕ voi không thể chết được. Đấy lŕ phép dạy voi của phường săn. Những ngŕy mới bắt voi ở rừng về, phải hành hạ thế, đến lúc dạy bảo, nó mới chóng biết ăn lời. Rồi một hôm Đô Lỗ ra gốc đa. Cőng theo một bó ngô cả cẳng cả bắp. Đô Lỗ cầm cây ngô quét vào mắt voi. Voi từ từ mở mắt. Voi ngửi thấy mùi thơm lá ngô, râu ngô, chợt tỉnh. Đô Lỗ đưa cả cây ngô vŕo miệng voi. Con voi nuốt trửng ngay. Rồi Đô Lỗ đặt bó ngô xuống đấy, dỡ ra. Voi nằm nghięng, giơ vòi, vơ vào miệng từng cây ngô cả bắp, cả lá. Một thoáng, hết veo. Hôm sau, Đô Lỗ lại vác bó cây ngô đến cho voi ăn. Một hôm, voi được cởi trói hai chân trước. Voi đứng hẳn lęn. Rồi thòng lọng ở cổ, ở chân cũng được phường săn tháo ra. Con voi rúc vňi hùng hục cuốn cả cây ngô. Hai voi nhà đến bên cạnh, cũng thủng thỉnh ăn như nhau. Cả tháng được chén như thế.
Rồi Đô Lỗ dạy voi quỳ, voi đi, voi quay đầu. Voi đă biết cong mũi vòi lại cho người đứng vào, rồi nhấc người lên ngồi trên lưng mình. Lúc Đô Lỗ quất roi mây vào lưng, lúc quát, lúc cười, lúc cho ăn từng buồng chuối, từng gông cỏ. Voi đă biết nghe lời người chỉ cho đi quanh quanh. Rồi voi biết ra bờ sông uống nước. Lại quơ vňi lên ngắt quả bưởi. Voi thích nhất được ăn chuối. Voi đi těm bụi chuối, vặn xuống, đưa vŕo mõm một lúc hết cả buồng hàng chục nải. Nghe hiệu hú gọi của Đô Lỗ, voi quay lại, đủng đỉnh về đứng dưới gốc đa. Đô Lỗ cưỡi voi sang nhŕ ạng Trọng. Con voi đă thuần rồi đem biếu ạng Trọng, bước theo sau. Hai con voi lội qua sông Cái. Trẻ con trông thấy, chạy vŕo bảo. ạng Trọng ra đón Đô Lỗ tận ngoài bãi. Đô Lỗ giơ tay làm hiệu. Con voi nhún hai chân trước ra điệu mời. Rồi voi chúm cong vòi lại. ạng Trọng cười, vuốt râu, bước đúng vào giữa vòi voi. Voi nhấc bổng ạng Trọng đưa lên ngồi chễm chệ trên lưng voi. ạng Trọng hể hả nói to:
-Ha! Ha! Mấy chục năm nay mới lại biết cái můi hôi lưng voi.
ạng Trọng và Đô Lỗ cưỡi voi đi rong dọc sông Cái, măi đến sẩm tối mới trở về. Con voi lại vươn vňi lên, cung kính, nhẹ nhàng đỡ ạng Trọng xuống. ở chơi mấy hôm, rồi Đô Lỗ về, để con voi ở lại với ạng Trọng. Đă lâu, từ độ ấy, hôm nay Đô Lỗ mới lại rủ Đô Nồi đi thăm ạng Trọng. Xuống xin cụ chỉ bảo phép đánh roi. Lại có ý mời cụ đi Vũ Ninh chơi. Hai con voi lęnh khênh đưa Đô Lỗ vŕ Đô Nồi vŕo xóm. Những nếp nhà sàn lửng, nửa cái cột trốn ghé vào gò đất, bóng mái lá gồi thấp thoáng. Lác đác, cây trám, quả xanh chi chít lẫn trong vňm lá xanh đen. Những cây cau đứng thŕnh hàng rào, thân mốc trắng, thẳng như che mành trước xóm. Hai người vừa đi mà lại phân vân, chưa biết ạng Trọng có nhà không. Thường khi cả tháng cố không ở nhà. Lão ông cao tuổi nhất thiên hạ, đâu cũng trọng vọng, đâu cũng tranh nhau được đón cụ đến chơi, hơi hướng cụ để cái phúc cho con cháu mọi nhŕ. Vào đến gốc đa, hai con voi bỗng đứng dừng lại. Có cái gě khác, voi vừa đánh hơi thấy. Hai người nghển nhìn vào. Quả có chuyện lạ. Con voi con đương bị thòng lọng tròng vào cổ. ạng Trọng giơ cái roi song, nhứ nhứ vào đầu voi. Con voi im thít, không biết đương thản nhięn hay đương sợ. Nhưng mẩu đuôi con con vẫn phất đi phất lại. ạng Trọng quát hỏi:
-Mày chừa chưa? Chừa chưa? Con voi vẫn thong thả vẫy cái đuôi hủn hoẳn. Đô Lỗ vŕ Đô Nồi nhảy xuống, chạy vŕo.
-Nó có tội gì mà cố chửi nó thế? Sao thế? ạng Trọng quay ra:
-à, các cháu đã sang... Rồi chỉ cái roi song vào đầu con voi, kể với hai người:
-Hư lắm. Dám ra ngoài bờ sông, bẻ nát cả bãi ngô. ạng trói lại hỏi tội đấy. Đô Lỗ bước đến, vuốt tay lęn trán, lên tai voi:
-Thằng này còn như trẻ con, hay thèm ăn vặt, cố ạ. Nó lại thích nhá ngô non, chuối xanh. Cố mắng thế, nó nghe biết tội rồi. Cháu xin cố tha cho nó. Có hai con voi kia đến nữa. Chúng nó sẽ bảo nhau nền nếp, từ nay không được ăn vụng, phải chừa ăn vụng. ạng Trọng cười:
-Cũng ne nẹt thôi mà.
-Lại quắc mắt:
-Không có Đô Lỗ hôm nay xin cho, tao gông mŕy lại một tháng.
Rồi cố ạng Trọng buông tay roi xuống. Đô Lỗ bước tới, cúi xuống, ghé răng cởi chiếc thừng da trâu buộc quấn hai đầu những đốt song vận thŕnh chiếc gông đóng cổ voi. Khúc song doăi ra, vừa lúc hai con voi kia bước đến. Ba con voi giơ vňi hít nhau, như mừng chào hỏi. ạng Trọng và hai tay đô lững thững vŕo xóm. Trên khoảng đất phẳng trước nhà, leo tràn lan vào đống cành giong tre, những dây bàu lá xanh tròn xoe, hoa vàng phấn. Quả bàu dài nằm ườn, quả bàu lọ ngồi lổm ngổm. Những quả gấc đỏ ối, lủng lẳng ngay đầu mái lá cọ. Có hai đứa bé cởi trần đóng khố ngồi bậu cửa, chầu hẫu nhěn ra. Thấy người đi vŕo, hai đứa đứng phắt dậy. Đô Nồi kęu lên:
-Kìa Đống! Kìa Vực! ạ hay! Các con đi bắt cá kia mà. ạng Trọng nói:
-Đừng mắng các cháu, phải tội. Lúc năy vừa đến, các cháu đă thưa với ông là nghe được bố với chú Đô Nỏ sắp sang đây đánh roi, thích quá, xin sang xem một lúc thôi. Nhưng Đô Nồi vẫn trợn mắt:
-Bọn quái này, sang đường nào? Vực tinh nghịch, làm hiệu quào quào hai tay. Còn Đống chắp hai tay lên bụng, cúi đầu.
-Chúng con bơi. Mặt Đô Nồi vẫn còn vẻ bực. Nhưng trong bụng thì nghĩ vừa vui vừa lạ. Từ nhà ở Chiêm Thạch ra tới bãi, cách một đỗi đường, rồi lại bơi qua sông. Thế mŕ tưởng như vừa lúc nãy chúng nó còn ở ngoài nhà, hai đứa đương hí hoáy nức thęm mấy nan tre cật vào miệng giỏ để đi bắt cá. Đô Nồi nghĩ mừng về hai đứa con mới năm nao cňn loắt choắt, giờ đă thành những quân không vừa. Thằng anh, thằng em như nhau, chạy như ngựa, bơi như con giái cá rồi. ạng Trọng quát:
-Đă nấu nước, giã chè chưa? Hai anh em cùng thưa:
-Nấu rồi ạ.
-Xách vào đây, pha nước đi. Đống ra ngoŕi bờ cỏ. Bếp lửa vừa tàn. Ba cọc cây dựng lên làm vua bếp, một đống than, trên đặt tàu lá cọ tươi buộc túm, vỏ bùn đã khô, ám khói đen kịt. Túm lá cọ trát bùn đun nước vừa sôi, bếp cũng vừa tắt. Vực vào trong nhà, bê ra một cái liễn đại da lươn, đặt giữa cửa. Lúc năy, khi ạng Trọng ra gốc đa quở mắng chú voi, hai anh em đă trèo lên cây hái chè, rồi cầm hòn cuội làm chày đá giã chè ngay trong liễn. ạng Trọng đã bảo:
“Chốc nữa, bố chúng cháu với chú Đô Nỏ sang tập roi. Có nước chè vò uống cho gân tay càng khỏe". Đống xách hai túm lá gồi vào, mở lạt ra đổ nước sôi đầy liễn. Khói bốc um, můi chè xanh thơm ngát khắp nhà. Đô Nồi và Đô Lỗ vào sau vách, vác ra hai cây roi. Đôi cây tre đực đă ngâm bùn ao rồi hun khói bếp róc nhẵn từng vấu. Đằng ngọn, buộc sẵn túm bůi nhùi bồ hóng. Vào đấu, ngọn roi quệt ra bồ hóng. Ai không đỡ được, bị chịu nhiều vết nhọ, người ấy thua. ạng Trọng đứng cầm trịch, tay xoč ra, giơ lên. Tầm roi dài quềnh quàng cả một cây tre nguyên. Người đánh roi, hai tay cầm giữa, vừa vững đuôi vừa khoẻ tay đâm đỡ trước mặt. Hai tay đấu roi đă ra giữa bãi cỏ. Người nào cũng đóng khố một, trần trùng trục, lẳn mình trắm. Cây tre đực cầm ngang, hai đầu bůi nhùi bồ hóng chụm hờ vào nhau. Hai người cùng móp bụng lại, giạng chân, đợi cố ạng Trọng lęn hiệu cho đấu. Hai cây roi vŕo trận. Ngọn roi, lưng roi va nhau chan chát. Mỗi tiếng chát đập vŕo, ngọn roi lại nghiêng ra ngoài. Người không vững tay, loạng quạng theo roi. Nhưng không, ngọn roi cứ vun vút. Hai cây roi trong tay hai lực sĩ cứ xoắn lại, cứ phấp phới -như hai con trăn quần thảo. Đống vŕ Vực chăm chú xem đến há hốc miệng. Những miếng roi đâm, đỡ, gạt hay quá. Lâu lắm mŕ chưa ai bị một chấm bồ hóng. Hai ngọn roi đč vào nhau, không roi nào chịu nhau. Lật sấp lật ngửa, vẫn ngang tầm cây tre thẳng đuột, đứng im. Rồi hai ngọn roi tựa vŕo nhau, như hai con gà trống chọi dựa cổ, cố thở. Nhưng đấy là hai lực sĩ để hai lưng roi tựa nhau, sửa soạn miếng mới. Hai lưng roi im lặng, im phăng phắc.
Mà trông hai người thì biết trong im lặng như thế, trận đấu vẫn gay go thật sự. Bắp tay, bắp vai, bắp chân chạy rần rật, cuồn cuộn lęn xuống. Những miếng roi đương trong thế đứng im, im mŕ tung hoành. Hai khuôn mặt đỏ rần rần. Mồ hôi chảy ròng, rồi lã chã xuống. Chỉ còn trông thấy những giọt mồ hôi lăn ra vŕ trên chốc bụng đều đều phập phồng như con ếch ngậm hơi. Bỗng dưng, ngọn roi Đô Lỗ chůng lại, như rùng mình. Rồi, chưa ai kịp trông theo, giữa rốn Đô Nồi đă bị khuyên hẳn một vệt nhọ đen sì, trên xấp mồ hôi nhễ nhại. Đống và Vực nhảy lên, reo:
-Bố thua rồi! Bố thua chú Nỏ rồi! ạng Trọng xua tay cười:
-Thôi thôi, mời hai ông đô hăy nghỉ tay.
Vào uống bát nước chè. Uống nước đã, rồi hẵng làm miếng nữa. Hai người buông roi xuống cỏ. Đống và Vực bưng đến một chồng bát đŕn, rồi nghiêng liễn, đổ từng bát nước chč xanh ngắt, bốc khói nghi ngút. Mọi người bưng bát nước ngồi xuống. ạng Trọng nói:
-Chú Đô Nỏ nhanh lắm. Giỏi lắm, giỏi lắm. Lúc ráo riết nhất mŕ chuyển thế võ vậy thì không ai kịp nghĩ. Chú Đô Nồi thua vào lúc tưởng mình đương vững, đương rình mò tìm miếng. Không phải ta đổi miếng mà chùng lại, kẻ kia đương căng hoá hẫng, người nhanh đến thế nŕo cũng không đoán nổi được ngọn roi ấy sắp đổ hay ngọn roi chuyển miếng. Cả đến trong bụng cũng bối rối. Thế lŕ tâm không định được. Chỉ chưa dứt một cái chớp mắt đâu. Bůi nhùi bồ hóng chú Đô Nỏ cứ việc chấm vào giữa bụng chú Đô Nồi thôi. Chuyển mềm đánh cứng trong lúc hai bęn đương ngang như tường thŕnh là như thế đấy. Nào, uống bát chè ngon cho lại sức nào... Giữa bãi, Đống và Vực đã vác roi lên, khua khoắng loạn xạ. Hai cậu bé vừa vờn roi vừa hét. Đám trẻ trong các xóm quanh đấy đă chạy đến từ lúc nŕo, xúm lại, reo hò rầm rĩ. ạng Trọng cũng phải buông bát nước, nhìn xem đường roi đă khá gọn của hai chú bé con nhà nòi. Cũng chưa chú nào chấm được vào nhau một vết nhọ. Lại đương đứng gầm ghč, roi đč roi, ngang sức như bố Nồi với chú Đô Nỏ lúc năy. Đất nước thượng vő, con trẻ cũng biết háo hức ngọn roi, miếng vật. Đến trưa, khói thui lợn đă ngun ngút quanh nhà. Các tay đấu roi dẹp đám, đợi bữa chén. Nhìn mọi người chạy đi chạy lại trong nhà, ra bãi, nhộn nhịp bếp núc, ạng Trọng cứ vuốt râu cười khà khà:
-Lúc già lại được trở về nơi chôn rau cắt rốn, lại thấy cháu chắt đông đŕn bao nhiêu lần hơn xưa. Một đời người được cái may cái vui đến thế lŕ đủ. Rồi ạng Trọng lại vui chuyện. Người xúm đến quanh. ạng Trọng kể chuyện người mọi nơi đều biết đánh đá ra lửa, biết nuôi dę, lợn lấy thịt, nuôi chó cho phường săn, biết bắt ngựa bắt voi về giúp việc mang vác. Vót lao ném rồi lŕm ngọn mác, cái cung, cánh nỏ, cái lưỡi câu, cái đinh ba, cái đó, cái rěu. Bắn con hươu đỡ phải đuổi. Těm con cá khỏi mất công chắn tay be bờ tát nước... ở Tần cũng như ở Hồ, hệt các đời vua chủ ta, thięn hạ đâu cũng sinh sống thế, nhân nghĩa thế. Ai có nhớ câu chuyện Thŕnh Vương nhà Chu trò chuyện với sứ giả vua Hùng. Thành Vương hỏi:
"Giao Chỉ vấn tóc, vẽ mình, để đầu trần, đi chân đất, nhuộm răng đen lŕ cớ làm sao?". Người của vua Hùng đáp:
“Vấn tóc ngắn để tiện đi lại trong rừng. Vẽ měnh cho giống hình long quân, khi bơi lội dưới sông, loài giao long không dám phạm tới. Đi chân đất để tiện trčo cây. Cày bằng dao, trồng bằng lửa. Trời nắng để đầu trần cho đỡ nóng bức. †n trầu cau, răng đen trừ được ô uế" Đấy đấy, hồi quốc sơ, ta đă biết lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ làm chiếu, nướng chim công, lấy cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối. Đất cấy được gạo nếp, bỏ ống tre lam cơm. Bắc gỗ lŕm nhà cao tránh hổ báo... ạng Trọng lại nói:
-Năm trước, ta cňn ở ngoài Trường thành ngoài kia Hàm Dương, bây giờ được trở lại nơi cha mẹ cho mình thành người. Nào thấy đâu khác nhau, không phải như vua quan Tần bỉ báng rợ Hồ, man Việt. Không, người Thương, người Miên, người Ngô cũng thế thôi. Mỗi người ở nơi đã được sinh ra là cái sướng nhất. Ta đi cả đời đến đầu bạc trở lại mới thấy ra niềm sung sướng ấy. Tra lúa, trồng kê, thấy con cháu đúc được cŕy đồng hơn cŕy mũi đá mŕ mừng. Con cháu biếu cho miếng bánh trưng, bánh dày, bánh mật, bánh ngói, cơm nắm, cơm lam, xôi nén... được nhắm rượu thịt trâu thui, gỏi cá... Răng chưa rụng, nhưng phải lŕm cối nghiền mới nhai được miếng trầu thơm ấm. Lại nhớ můi trầu cau nồng nàn từ thuở còn rúc vú mẹ. ại thôi, ăn một bữa gỏi cá anh vũ chấm nước bỗng gừng rồi ngủ một giấc, là được rồi...
ạng Trọng cười khớ khớ một lúc. Cười đến ứa nước mắt, cuối đuôi con mắt nhăn nheo. Đến Đô Lỗ, Đô Nồi chắc cũng chưa thấu hết được ý tứ tâm tư một đời tha hương của ông giŕ trên trăm tuổi ấy, kể chi đám chú Đống, chú Vực. Ngoŕi bãi cỏ trước nhà, mùi cá anh vũ nướng đã thơm điếc mũi. ạng Trọng trông ra, thấy ngoài phía cây đa, một con ngựa phóng tới. Trời tạnh ráo mà cả người cưỡi và chiếc ngựa đen tuyền cùng ướt lướt thướt. Nước nhỏ thành vệt trên lối đi. Hẳn người ngựa vừa bơi sông Cái sang. Vào đến giữa ngõ, người cưỡi ngựa nhảy xuống. Mình để trần, lưng vắt vẻo chiếc khố đuôi lươn. Người ấy đỡ cái bọc to đội tręn đầu xuống. Thě ra, quần áo, nón, thắt lưng đă được túm cả lęn đầu lúc người ngựa qua sông. Trông biết đấy lŕ ông quan lạc ở trên ngược về. Quan lạc đến trước mặt ạng Trọng, quỳ xuống.
-Lạy cố! Lạy cố! ạng Trọng nói:
-Việc gì cũng để đấy. Hẵng uống ngụm nước. Rồi đợi bưng cá nướng vŕo, nhắm cái đă.
-Việc vội lắm.
-Việc gì?
-Tôi không được biết. Hěnh như có người bên Tần đến. Vua chủ sai đi mời cố về. ạng Trọng xốc ống quần, xoa bŕn tay trên đầu gối, đuôi mắt chau lại, đăm đăm ngẫm nghĩ. Bấy lâu, vua Tần đă dẹp xong nước Yên, nước Hàn, nước Tề, nước Ngụy, nước Kinh, nước Đại, cả các tộc Việt phía nam đă vào một mối quận huyện. Doanh Chính đã xưng đế, định đô ở Hŕm Dương rồi. Ngoài ải, dân phu đã đắp Trường thành ra đến cửa quan Sơn Hải giáp bể. Thiên hạ, vua Tần đã vỗ yên từ lâu rồi mà... Hay là... Hay là... Bao nhiêu năm ở Tần, ạng Trọng không lạ tâm tính bất nhất của Doanh Chính. Từ khi lên ngôi, Thủy Hoàng lại càng ngông cuồng... Không biết chuyện gì thế này. Thế rồi ông quan lạc đưa tin đă chạy ngựa về trước. †n uống xong, mọi người cùng đưa ạng Trọng sang sông. Con voi con phá bãi ngô đã được ạng Trọng tha tội rồi. ạng Trọng vừa bước tới, voi nghiêng vòi đỡ ạng Trọng lên ngồi vào bành trên lưng. ạng Trọng đĩnh đạc, chễm chệ tręn lưng voi chẳng khác các chàng trai Đô Nồi, Đô Lỗ. Sông Cái bao la trước mặt. Nắng toả xuống, mặt nước sáng rực đến chân trời. Không trông thấy lům tre, bến bãi bờ bên kia. Đống và Vực cùng ngồi trên lưng voi nhà với bố. Ba con voi cuốn cong vòi, lội ào ào. Càng ra ngoài nước càng xiết, càng mênh mang. Ba con voi khoan thai, ung dung như đi trên bộ. Người ngồi giữa mỏm lưng voi mấp mé các làn sóng xoáy nước quấn quanh. Không biết voi đương đi hay voi bơi. Trông vŕo bờ đă xa tắp, vẫn thấy ba con voi lù lù lênh khênh như lúc vừa ra khỏi bến. Chỉ khác, Đống và Vực ngứa ngáy chân tay, không chịu ngồi yên trên lưng voi. Hai anh em sà xuống mặt nước, lúc bơi trước, lúc bơi sau, lượn quanh đàn voi. Đống và Vực chẳng cần cưỡi voi cưỡi trâu mới qua được sông. Hằng năm, đến můa cá trên nguồn về đẻ, bố Đô Nồi thường sai hai con lội lęn tận ngã ba sông Cái bắt cá anh vũ. Chẳng phải rìu, phải đơm đó, anh em lặn xuống nước, quơ tay đuổi cá, nửa buổi đă bắt được đầy thời đem về. Đă trông rõ mép cát vàng mịn thia lia trước những bụi tre xanh xanh kéo dài. Đôi chỗ, nổi lên một cây gạo, hoa nở đỏ rực rỡ một vùng. Ba con voi lần lượt lên đứng đợi nhau tręn bãi cát. Đô Nồi hét hai con:
-Về đi bắt cá, đi ngay. Có khi chiều nay cố với chú Đô Nỏ về nhŕ ta... Đống vŕ Vực hét to hơn bố:
-Rồi bố với chú ấy đấu roi nốt. Sáng ngŕy chưa xong mà. Đô Nồi xua tay:
-Về ngay, về đi ngay... Đống vŕ Vực cùng chắp tay quỳ vái cố ạng Trọng rồi chạy biến vào bãi ngô, khiến những con cuốc ấp trứng trong bụi cây đương khắc khoải kêu "cuốc cuốc" gọi nhau, bỗng bay lè xè tán loạn sang cánh bãi bên cạnh. Ba người cưỡi voi men bờ sông, ngược lên. Dần dần, qua những lùm tre dằng dịt, xanh ngắt, lả xuống ngang đầu. Có khi phải cúi xuống luồn đi. Con voi cňn cố đứng lại, quơ vňi lên, vít xuống, tống cả cành lá vào miệng. Người cưỡi voi phải rút dao nghển đầu ra phạt cây tre ngả ngang, con voi tha cả cây tre đi. Bęn kia bờ tre đă nhấp nhô những trái đồi đất. Tręn đồi, cây cọ xňe quanh từng tàu lá tròn xanh tơ.
Những trận mưa to đầu můa vẫn còn để lại vết trên mỏm cao xối xuống, rạch thành từng luống đất đỏ xuộm quanh chân đồi -lŕng xóm quây quần ở đấy, những nếp nhŕ tường đá ong xů xì, mái lá cọ, lá nứa, lẫn lộn tựa vào nhau. Đến đây, lối đi trŕn lan qua những bãi đất bãi cỏ tranh, cả ba con voi cứ thong dong chạy chồm lên. Từng lùm bụi đỏ bốc đằng sau. ạng Trọng vẫn ngồi thẳng tręn lưng con voi bồn, ung dung như từ lúc trèo lên. ạng Trọng chưa nhấp một ngụm rượu, mà mặt đỏ phừng giữa vùng râu, tóc, lông mày bạc phơ cứ bay thốc từng nạm trước làn gió ngược. Mọi người ngẩng lên, bỗng thấy đằng kia một đám bụi bốc mů mịt. Đám bụi cuồn cuộn dịch gần lại trước đŕn voi. Lát sau, ba con voi đă gặp một đŕn hàng chục con ngựa lố nhố dàn trước mặt. Ngựa các quan lạc đi trước. Rồi đến ngựa vua Thục tiến ra. Vua Thục cởi trần, lực lưỡng, tay cầm cương ngựa, cái giậm xúc cá vác tręn bả vai. Tręn lưng những con ngựa khác, người nŕo cũng vác đó, vác giậm. Có người vác cỗ lưới, lỏa tỏa chân đồng chân cuội va xuống lưng. Ba con voi vừa dừng lại đă cất vòi lên đỡ ạng Trọng và Đô Lỗ, Đô Nồi xuống. Cả ba người cůng cúi đầu trước vua Thục, lúc ấy đă xuống ngựa. Vua Thục chạy lại, cầm tay cố ạng Trọng. Rồi vua Thục nhìn quanh. Bốn bề, bãi ngô bát ngát cao ngập đầu. Vua Thục bảo đám quân gia:
-Bay ra bắt cá ở vực cuối bãi kia. Ta vào nghỉ trong bãi ngô.
Túp lều đi băi người ta dựng từ độ tra ngô. Nhưng mái cọ vŕ cột chôn vẫn còn đứng được suốt můa mưa. Quan lạc và mấy người lính dắt ngựa vào trước, ném xuống những cẳng ngô khô rồi trải lên mấy chiếc chiếu đậu mới, trắng ngà. Ba con voi đã vào trước lều. Bãi gió lào xào, xanh rờn. Những bắp ngô mới nhú, to bằng bắp tay, râu nõn phơ phất. Nhưng con voi của ạng Trọng đứng yên. Ngọn ngô cọ cả vào bắp chân, vào cổ voi. Vòi voi vẫn thõng xuống, loăng quăng đập ve. Nghięm quá. Như không biết thức ăn ngon ngay cạnh miệng. Voi hăy còn nhớ trận đòn. Vua Thục nói:
-Có người vua Tần đến. Tôi không muốn ông vŕo trong thành. Nhỡ chúng họ trông thấy, mà tôi chưa gặp ông, chưa biết thế nào.
-Có việc gì hệ trọng...
-Sứ Tần nói người Hồ lại phạm vào Trường thành. Vua Tần nghĩ bao nhiêu năm ông trấn ngoài ấy, người Hồ không dám động tĩnh. Nay chỉ có ông, người Hồ mới lui được. ạng Trọng nói:
-Tôi đội ơn vua chủ khéo ý tứ không muốn để người của vua Tần giáp mặt tôi. Một đời tôi lưu lạc, tuổi giŕ rồi mới được về quê. Tôi không đi nữa, vua chủ ạ. Vua Thục nói:
-Tôi cũng đă nghĩ ông sẽ bảo tôi thế. Nhưng biết trả lời người kia thế nào? ạng Trọng giơ tay vuốt làn tóc trắng:
-Nói là tôi chết rồi. Năm nay tôi đă trên một trăm tuổi. Một đời tôi dŕi gấp mấy đời người ta rồi. Có khi nào bên nước Tần lại ngỡ tôi còn sống. Vua Tần cho người tìm cũng là tìm cầu may đấy thôi. Nói tôi đă chết, tin ấy cũng nghe lọt tai được. Đương cao hứng, ạng Trọng lại xắn quần, xoa hai tay vŕo đầu gối.
-Chỉ bởi tôi về được đất quę, được ngồi bãi ngô, được ăn con cá, con tôm, con lươn, con chạch bắt ở vực, ở đầm. Chỉ bởi cői ta từ thời ông An Tiêm biệt ra đảo mà rồi cũng lần mò về được, thói tục ta đă quen đoŕn tụ quây quần... Bởi vậy... vì thế, vì thế mà tôi vẫn sống đến hôm nay. ạng Trọng lại cười to. Lây cả cái vui đến Đô Nồi vŕ Đô Lỗ vẫn ngồi nghięm hai bên gối ạng Trọng. Hai người như nghe ra điều mới lạ, cứ "vâng ạ, vâng ạ" luôn miệng. Vua Thục đặt tay lęn lưng ạng Trọng.
-Tức thật, giá hôm nay không có sứ vua Tần ở trong thành, các người cùng tôi về chén bữa cá gỏi. Chỗ vực này cũng nhiều cá anh vũ lắm. ạng Trọng nói:
-Để khi khác. Bây giờ tôi có điều muốn bŕn. Vua Thục kính cẩn, lặng yên, ngước nhìn ạng Trọng. ạng Trọng thong thả nói:
-Cõi ta không thiếu người tài. Người như các chú Nồi, chú Nỏ này tuy hiếm mà vẫn có. Cứ trông đến những cháu Đống, cháu Vực con cái các chú ấy cňn bé bỏng mà cũng đã chớm nảy nòi thì khắc biết. Nòi nào giống ấy, tôi mừng lắm. Nhưng tôi còn lo ta chưa có thành vững. Đất Văn Lang chỉ mới được cái hiểm đồi núi, không phải là nơi dụng võ, không ở thế trung tâm nghìn đời. Ta cần phải xây thành. Tôi ở Tần, tôi biết vua Tần vốn ngông cuồng, lại thâm hiểm. Biết đâu, chỉ người sứ này về nói tôi chết rồi, vua Tần có thể muối mặt phát quân ngay đấy. Tôi chết rồi mà, ta hết người giỏi rồi mà. ạng Trọng im lặng, ngẫm nghĩ một lúc.
-Vả cứ xem việc ta giao hảo, đi lại bấy lâu, cũng đủ rő tính nết nó.
Voi đen đưa mừng chưa như ý, lại đňi bạch tượng. Cả mấy cõi phải lùng bắt cho được tê giác trắng, cực nhọc chừng nào. Ta lấy tình xóm giềng đối đăi, người lại bỉ mặt nghĩ đấy lŕ thân phận phên giậu... Từ khi vua Tần nghe mưu sĩ đưa quân đánh xuống phía Nam, bắt họ Việt các nước ấy lập ra quận huyện Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận, đặt chức úy cai trị, tôi cŕng thấy mối lo đến trước mắt. Vua chủ phải sớm định liệu mới được. Vua Thục đăm đăm nhěn ạng Trọng rồi nói:
-ừ, ta phải xây thành... phải xây thành... ạng Trọng lại nói:
-Tôi vẫn ngày đêm nghĩ thế. Tôi đã đi tìm được một vùng đất phong thủy có cơ lâu dài. Vùng ấy đất tổ ong, phơi nắng thì rắn chắc hóa đá. Một dải đồi tổ ong tựa bờ sông Thiếp, sông Thiếp nối sông Lý sang các ngọn lęn Vũ Ninh, lại ra sông Cái, xung quanh hiểm hóc, bao bọc nhiều đầm hồ, nhiều vực. Đánh bộ, đánh thủy, tiến lui đều thuận. Thế dữ như rừng đại ngŕn, dẫu cho kẻ địch có lọt vŕo cũng khó còn mang xác ra được. Vua Thục hỏi:
-Có phải sông Thiếp gần đây không?
-Phải, đất ấy giữa vůng Kẻ Nhồi, Kẻ Vang... Gần đây, ngay đây thôi. Từ chỗ nŕy, chỉ dạo quá một quãng, đã tới địa đầu đất quý của ta. Ta hẵng đi xem nŕo. Đŕn voi ngựa ra khỏi bãi ngô, tới bờ sông Thiếp. Lùm tre rủ trên bóng nước lặng mát. Vua Thục cùng với ạng Trọng, Đô Nồi, Đô Lỗ vŕ các quan lạc vượt qua mấy quả đồi thấp, trọc lóc. Đồi đá ong cằn cỗi, cả đến cỏ gŕ, cỏ ấu cũng không len lỏi trồi lên được. Nhìn hút mắt đến tận đằng xa, vẫn trông toŕn một màu đất đá vŕng khè đỏ xuộm như thế,
-như bức tường thành xây sẵn ven hào nước. Mọi người dừng lại trên đồi. Vua Thục ngước mắt ra bốn phía. Bên kia sông Cái, dãy núi Ba Vì nổi xanh ngắt trên nền trời sáng trong. Lại như cả một dải tường thành trấn giữ vòng ngoài nối liền với sau lưng, triền núi phía tây sừng sững tay ngai hùng tráng. Sông núi dựng lên những chiếc lá chắn bày trận liên tiếp, trập trùng không một khe hở. ại thôi, đúng là đất hiểm nghìn năm dụng võ đây rồi. Vua Thục gật đầu nói:
-Đất nŕy có thế vạn đại thật. ạ hay, tôi đă qua Kẻ Nhồi, Kẻ Vang biết bao nhiêu lần mà không thấy như hôm nay. Vua Thục cúi xuống, vái ạng Trọng:
-Khi tôi còn trẻ ở bên kia chân núi Ngũ Lĩnh đã nghe tiếng ông một mình sang Tần, nay mới được thấy rő ràng con mắt và cái tài ông. ạng Trọng vuốt râu, chỉ tay ra trước mặt:
-Một tòa thành đá ong mọc lên suốt dọc bờ sông này. Vua chủ trông kìa, quân thủy ta từ Vũ Ninh vào sông Thiếp xuống qua cửa thành ra sông Cái, chỉ áng một buổi. Lại bao nhiêu đầm vực án giữ với một khuỷu sông Cái ngăn lại. Ta giấu měnh từ các bờ lau sậy bên kia tiến ra thình lình, cắt quân nó quãng nào cũng bằng cầm con dao lóc miếng thịt.
-Phải, ông nói phải...
-Còn việc xây thành, giữ thành đã có các chú này giúp vua chủ. ạng Trọng vươn tay đập xuống lưng Đô Nồi vŕ Đô Lỗ. Vua Thục nói nhỏ, thŕnh kính, thiết tha:
-ạng yên tâm. ạng yên tâm. ạng Trọng cùng Đô Nồi, Đô Lỗ từ biệt vua Thục ở quăng bờ sông Thiếp ấy. Nhưng vua Thục còn ruổi ngựa theo voi tiễn ạng Trọng một quãng. Vua Thục dặn với:
-Hôm nào mát trời, người vua Tần về rồi tôi cho đón ông sang chơi. ạng Trọng nói:
-Được, ta cňn tháng rộng ngày dài. Tôi nói xong với vua chủ việc ấy, có chết tôi cũng nhắm mắt được rồi.
-Không, phải sang đánh chén cái đă.
-Được, được. Cả hai ngả đường, bụi cuốn ngůn ngụt mỗi lúc một xa. Buổi chiều, ạng Trọng đă trở về đến Chięm Trạch. Đô Nồi khẩn khoản:
-Cố với chú Nỏ vào ngơi chân đã. ạng Trọng nói:
-Tao cũng muốn ghé chơi với hai cháu bé. Nhưng thôi, nghỉ một đęm chẳng bõ. Để hôm nào lên vua chủ ở chơi lâu một thể. Tính ạng Trọng vốn vậy, định làm gì, không ai cản nổi. Thế là Đô Nồi lại đưa tiễn ra tận bờ sông. Đống vŕ Vực ở nhà trông thấy bụi bốc ngoài bãi, đoán voi bố về, chạy ra đón. Tiếc ngẩn ngơ không được ạng Trọng vào chơi. Cứ khoe lúc nãy tát được một thời cá anh vũ, cá béo bụng dày một gang mỡ vàng. Làm gỏi cá béo thế, ngon không gì bằng... Thế mà cụ chả nghỉ lại. Hai con voi ạng Trọng và Đô Lỗ đă lội qua sông, lên bến. ạng Trọng vào nhà, bảo Đô Lỗ:
-Chú đun cho ta nồi nước. Đừng đun nồi đất. Ta chỉ thčm uống nước nồi lá cọ trát bùn. Nước sôi có mùi lá tươi, chè ngấm càng đậm. Đô Lỗ nghiền xong cối chč vò, nước cũng vừa sủi sùng sục trong bọc lá. Đô Lỗ đổ ra liễn, ủ lại vŕo rơm một chốc, lấy chiếc bát đŕn, múc, bưng đến đầu giường ạng Trọng. Bát đŕn nước còn nóng, xanh ngắt, khói toả trắng mờ. ạng Trọng uống cạn một ngụm, ngẩng lên, chẹp chẹp miệng, nói:
-Ngon quá! Ngon quá! Không đâu có được giống chč vò ra uống, nước đun bọc lá cọ ngon đến như thế nŕy. ạng Trọng nhìn ra trước cửa. Đã nhá nhem tối, nhưng vẫn trông thấy những dây bầu lọ, dây bí leo trên cành rong. Quả bầu, quả bí lổm ngổm cạnh những quả gấc buông thõng, đỏ chói. Bốn bên làng xóm êm đềm trong hoàng hôn. ạng Trọng thong thả nói với Đô Lỗ:
-Ta mừng đă bàn được việc xây thành với vua chủ. Nhưng việc kíp lắm. Các chú phải thúc bách vua chủ hằng ngày mới được. ạng Trọng bảo Đô Lỗ ra múc bát chč tươi nữa. Rồi ạng Trọng từ từ ngả người xuống giường. Đô Lỗ lại trước cột, châm cái bůi nhùi đầu trám. ánh sáng tỏa khắp nhà. Ngoài kia, tiếng ve cất ra rả trong bóng tối nhọ nhem. Đô Lỗ bưng bát nước vào. ạng Trọng nằm quay mặt vào vách, đầu gối chiếc gối gỗ mít như người đương giấc ngủ trưa. Đô Lỗ đặt bát nước, mời ạng Trọng. Nhưng không thấy ạng Trọng ừ hữ gě. Đô Lỗ khẽ lay vai. ạng Trọng vẫn nằm yên như thế. Đô Lỗ bước ra, nước mắt giàn giụa. Đô Lỗ vỗ hai tay vào trán con voi đứng ngoài giọt gianh. "Cố mất rồi! Cố mất rồi!". Đô Lỗ xách chiếc chày tay lên, đánh liên hồi vào thành cối gỗ. Tiếng chày va, kêu lên côông côông. Thế là bốn phía biết hiệu báo nhà nào có người ốm, có người chết, nhà nào làm sao đây. Người tất tả chạy đến. Con voi đủng đỉnh bước lęn, chui hẳn đầu vŕo dưới mái nhà. Voi quỳ phủ phục cả bốn chân, chầu vào giường ạng Trọng.
II
(Năm 214, trước công nguyên)
Tần Thủy Hoàng sai tướng Đồ Thư đem quân sang đánh Bách Việt vŕ Œu Lạc. Lúc bấy giờ, ở phía bắc thì nhà Tần mắc họa với người Hồ, ở phía nam thì mắc họa với người Việt. Vào Việt, Tần đóng quân ở đất vô dụng, tiến không được, thoái cũng không xong. Trải hơn mười năm, đŕn ông phải mặc áo giáp, đŕn bà phải chuyên chở. Khổ không sống nổi, người thắt cổ tự tử trên cây dọc đường, người chết trông nhau.
Tư Mã Thiên (Sử ký)
Người Việt chạy vào rừng, đặt người tuấn kiệt lên làm tướng. Ban đêm ra đánh quân Tần. Đại phá Tần, giết được tướng Tần lŕ Đồ Thư. Đến khi Tần Thủy Hoŕng chết, Tần Nhị Thế bãi binh. (Hoài Nam Tử) ạng Nỏ, tên là Cao Lỗ, quê ở Vũ Ninh. Còn gọi là Đô Lỗ hay Đô Nỏ. Cao Lỗ cůng em là Cao Tứ đều là tướng tài của An Dương Vương... ................................... Xã Hương Canh có một nhà nghèo, làm nghề nặn nồi niêu. Hai ông bà hiếm hoi, sinh được một con trai, đặt tęn là Nồi. Nồi giỏi vật, cả vùng gọi là Đô Nồi. An Dương Vương mở hội thi võ chọn người tài giỏi. Nồi được vua cử làm lạc tướng. Vợ ông Đô Nồi người lŕng Chiêm Trạch, sinh được hai trai, đặt tęn là Đống và Vực. Hai anh em Đống, Vực đều giỏi vő. Ba bố con cùng làm quan triều An Dương Vương.
(Truyền thuyết Hùng Vương
Hội Văn nghệ tỉnh Vĩnh Phú 1981)
* * *
Tần Thủy Hoàng gọi tướng Đồ Thư về Hŕm Dương, truyền:
"Nước Œu Lạc nhỏ như cái đấu, ta cho ông sang đấy, chỉ đong vŕi đấu đă hết người...". Nhưng ngoài mười năm rồi, hàng vạn quân Tần vẫn lặn lội ở phương nam. Nghe nói có người Đồng, người Linh, người Cật sinh sống trên các ngọn nước, người Bàn Hồ ở bên kia núi Ngũ Lĩnh cũng về giúp Thục. Tình thế quân Tần lại càng khó nữa.
Đương giữa trưa. Nắng dữ như táp lửa, thổi lęn ngùn ngụt. Những cây ngô lá cháy đỏ áy. Mỗi cơn gió nóng chồm qua, cánh bãi sóng nắng lửa lên ngùn ngụt. Trên các nẻo đường hai bên bờ sông, đất nứt toác từng quãng. Con trâu đi vô ý lọt chân xuống, không thể rút lên được, đŕnh chết đứng giữa nắng. Cả vůng trời tức thở. Chỉ nghe có tiếng con ve kim kêu ong ong như tiếng nắng ran ra. Nắng cháy thui chết hết. Còn có mỗi giống ve sống sót. Tiếng kêu oi ả rúc ráy từ đâu rầu rĩ, rền rĩ ra, không biết. Phía chân trời bên kia, một đám mây đůn lên, đen kịt như bồ hóng. Đương nắng cháy, trời đă lại dọa mưa bão. Nắng càng gắt khủng khiếp. Vực nước to đã cạn, chỉ còn một hũm sâu cạnh bãi ngô. Giữa chỗ lòng chảo sâu nhất, những đống bùn khô trắng đương khoanh thắt lại, một đám thâm sịt se se chon von giữa chũm đất nhăo. Đống vŕ Vực bì bõm lội bắt chạch trong vũng bùn xốp khô ấy. Mỗi lúc, hai anh em đứng im, không ai trông thấy nữa, lẫn vào mô bùn. Cả Đống và Vực cứ mải mê rút chân từ trong bùn lún, như đuổi theo đŕn chạch vô hình đương chạy trốn dưới hốc sâu rồi lại cúi xuống thọc tay vào bùn, ngập lên tận nách. Trên sườn vắt vẻo chiếc giỏ buộc dây chuối quàng xuống bụng. Nước cạn, cá trắm, cả đến cá quả cũng chỉ cňn lại bộ xương trắng nhởn trên mặt bùn khô. Con ếch, con lươn đã bỏ lỗ tránh đi đâu. Chỉ một giống chạch chịu được cơn nóng cňn rúc xuống ẩn dưới đáy bůn. Bỗng trong tịch mịch, nghe lạc đạc, rời rạc những tiếng gő khô khốc, nặng trịch, uể oải. Con trâu con bò ở chỗ nào đương lểu đểu đi trong nắng tręn cao. Ngoảnh mặt lên, thấy đầu bờ đằng kia, tręn đường nắng chói rung rung lęn có người đương đi tới. Người ấy cưỡi trâu, một tay lại kéo theo con trâu nữa bằng cái chăo buộc vào cây giáo tròng vào cổ trâu. Bao năm đă quen mắt thế, chỉ thoạt trông cũng biết đấy lŕ bọn quân quan Tần đi đốc lương. Mỗi bước, con trâu như sắp rời chân rời móng ra. Mőm trâu vều lên. Từng đám bọt mép phùi trắng nhả. Tưởng như chỉ còn sức cố được vài bước. Người khật khưỡng trên lưng con trâu đi trước, vẻ còn thảm hơn trâu. Người cũng há mõm như trâu. Dãi rớt và nước mắt ứa rờn rợt xuống bụng.
Người ấy chỉ bện quanh hông một vòng khố bằng bẹ bàng. Mình trần, bắp chân, mặt vốn nhợt nhạt đã xám nắng, thành màu mốc xám. Đầu đen kịt, không phải chỉ vě tóc rũ rượi, mà nắng dữ quá, cả cái tai, cái gáy tóc che cũng đen cháy bồ hóng. Chỉ còn hàm răng vẩu nhe ra, vẫn trắng nhởn. Người và trâu lẽo đẽo, như trong cái vạc đồng hầm hập úp tręn đầu. Mồ hôi vă xuống, lóa mắt. Người lính Tần cũng đă trông thấy Đống vŕ Vực. Người lính chống ngọn giáo xuống mặt đường nắng chang chang. Con trâu đứng lại, người ấy gọi to xuống:
-Lên đây, lên... Đống và Vực rút tay khỏi vũng lầy, lật đật chạy lên, chùi tay bùn vào bẹn. Người lính Tần nói:
-Tìm cho quan... ngụm nước, ngụm nước. Đống nhanh nhẹn nói:
-Có, có nước tôi để đằng kia, ông quan Tần ạ. Rồi lại lễ phép:
-Quan cùng đi với chúng tôi, quan cho anh em tôi cưỡi con trâu đi không nŕy đến chỗ gốc cây. Chúng tôi để nước ở đấy.
-Nhanh lên! Người lính Tần nghiêng cái giáo, sợi thừng buột khỏi đầu trâu. Đống đập tay độp độp vŕo mang tai trâu, rún chân, nói:
"Mau nào! Mau nào!" Có tiếng người quen quen giục, những con trâu chợt bước gượng lên. Móng trâu lộc cộc trong nắng vàng khè. Đến một cây chết nắng trơ trụi, sém hết lá, không nhận ra cây đa hay cây đề. Nhưng thân cây to, đă ngả thành vệt rợp che bóng mặt trời xế trưa. Đống nói:
-Quan đứng vŕo bóng cây cho mát. Người lính Tần tụt từ lưng trâu xuống, không đắn đo, không hň hét, há miệng bước lủi thủi như mê, chưa tỉnh. Khát nước quá, sắp quỵ xuống, hay say nắng cũng nên. Hai con trâu và hai anh em chơ vơ giữa nắng nhường bóng mát thân cây cho người lính. Người ấy cũng chẳng nghe rõ Đống nói. Đống phải dắt tay vŕo. Người ấy phờ phạc ngồi huỵch xuống. Rồi ngẩng mặt lên, nói giọng khao khao:
-Nước đâu... Nước! Đống đă trèo lên cây, moi trong hốc ổ quạ làm tổ ra hai tàu lá cọ buộc túm rồi nhảy xuống. Đống bưng cả hai túm lá đến trước mặt người lính Tần, đặt một bọng xuống đất rồi cởi cái dây cỏ gà buộc đầu túm. Nước trong lá rỉ ra rơi lã chã xuống đất thấm biến mất. Người lính trố mắt, giơ tay với lấy. Đống bưng túm lá cọ đầy nước lęn.
-Để tôi cầm hầu quan uống. Quan cầm thě đổ hết mất. Quan cứ uống thả sức. Rồi tôi lại biếu quan đem bó nước nŕy đi. Người lính ngửa cổ uống ňng ọc như tiếng nấc, tiếng sôi bụng. Đến lúc người ấy nhuôi hai tay ra, mặt toát đầm mồ hôi hột, mắt đờ đẫn, lả đầu vŕo gốc cây. Đống nói:
-Tôi cho quan mang túm nước này đi. Người lính Tần khẽ gật đầu. Tự nhięn, nhếch mép, chìa nhô cả hàm răng trên trắng nhả. Đống lại hỏi:
-Quan muốn ăn cá không? Người ấy gật đầu. Đống trông ra trước mặt, lŕm hiệu:
-Đằng kia có cá. Người ấy hếch hŕm nham nhở, như mới hoàn hồn
-hồn mới ngơ ngác ở đâu về, miệng nói chưa bắt vŕo chuyện. Người ấy nói:
-Rồi tao cưỡi trâu... Chúng mày dắt con trâu này... một thằng đi trước, một thằng đi sau... Đi chệch chỗ, tao xỉa giáo, có thằng chết. Tao đi lůng mấy ngày mới được đấy. Mất thě tao giết thịt chúng mày thay thịt trâu. Nói rồi mân mê cán giáo. Lúc nãy sắp chết, tay nắm cây giáo làm gậy chống. Bây giờ khỏe, lại nhớ đến đâm chém. Đống nói:
-Có cá quả. Người ấy như ngớ ra:
-Cá quả à? Cá quả thế nào?
-Đằng kia có cá quả. Đống lại nói:
-Để tôi cưỡi trâu đi cho nhanh.
Nói rồi lại phắt lên lưng trâu, vỗ vào vai trâu. Hai anh em cưỡi hai con trâu, khật khưỡng bước. Rồi trâu bỗng cất vó chạy. Như biết mình đương sắp được về chỗ sống, trâu lồng lęn, bồn lên. Người lính Tần chỉ cố nói được mấy câu lúc nãy rồi lại lử đử, đờ đẫn, doạng hai tay hai chân. Khát nước quá, lại no nước quá, bây giờ bải hoải không nhấc nổi měnh, không đứng lęn được. Cứ ngồi tựa gốc cây, rũ ra như con gŕ sắp chết giây. Chốc lại cong cổ, nấc một cái. Đến đỗi anh em Đống nói rồi không đợi trả lời, cưỡi trâu đi luôn, người lính Tần cũng chỉ nhớ: Cá quả! Cá quả! Rồi đờ mắt nhěn theo, không rõ việc gì nữa. Mãi sau người ấy mới dần dần nhớ ra ta là quan đốc lương. Càng ngày, kiếm được ra lương ăn cŕng khó. Cả hàng quân thành ra quân đi đốc lương mŕ cũng không xong. Đi mấy ngŕy không gặp người. Người chạy đâu mất cả. Đốt hết các nhŕ trong làng, cũng không thấy cái gì chui ra. Cả nghìn người vác giáo khắp vùng, gặp gì chặt nấy. Bắp ngô, quả mít, bầu bí, nhổ cả bãi đỗ, bãi lạc... Rồi may mắn thế nào, gặp được đŕn trâu đứng đầu băi. Chắc vẫn có người ở đây, cứ giấu trâu quanh quẩn, mới có trâu ra sớm vậy... Thôi, thôi, hơi đâu mŕ tìm đuổi thêm. Cũng đi xa bọn quá rồi. Bắt được hai con, mấy đứa hám ăn, lao đuổi nữa, không thấy trở lại. Phải quay về thôi. Mấy lần, có đứa sa đŕ nhỡ chân đă mất tích. Những thằng này hẳn chết rồi. Đánh dấu chỗ này lại. Còn có hai người cưỡi hai con trâu về. Một người cảm nắng chết lăn trên lưng trâu xuống. Bây giờ một mình ta, con cưỡi con dắt về đến đây. Người lính Tần ấy cứ nhớ ra đến đâu lại cŕng đâm sợ. Từ lúc còn một mình đã hốt. Đến giờ, trông quanh quất không thấy hai con trâu đâu, bỗng rú lęn. Hai đứa trẻ cưỡi trâu lơ lửng trước mặt kia kěa. Người ấy giật thót mình. Nếu chúng nó cứ thế đi, cũng chịu không cách đuổi theo. Đầu gối nhức, không cất nổi vŕi bước. Chết rồi, chết rồi... Có phải một đứa giơ tay, rő ràng tay nó xách con cá. Thằng bé cưỡi trâu bên cạnh, vẫy vẫy. Hình như chúng nó gọi lên lấy cá. Nhưng mà buốt chân quá không nhích lên được. Chúng mày đem cá lại đây, trả trâu lại đây. Chúng mŕy đem cá lại đây, chúng mŕy...
Nước bọt đặc sệt trong cuống họng. Chỉ hộc được ra mấy tiếng, như con hươu giác, cổ tắc lại. Người ấy vung tay lęn lao cái giáo. Ngọn giáo bổng lên được vài sải chân, mũi đồng loang loáng, rồi rơi xuống trong nắng, ngay trước mặt. Lại luống cuống giơ tay như muốn quào chúng nó lại. Như nghe tiếng gọi lên đấy lấy cá... lấy cá... Đống vŕ Vực vẫn sóng đôi tręn lưng trâu. Một lát, hai con trâu bồn nhanh. Bụi đỏ mů mịt cuốn. Bụi tan, không thấy trâu đâu nữa. Chỉ có nắng hầm hập vŕng ủ dột đến tận cánh rừng xa xa. Giữa đồng không trơ trọi, nắng lửa vẫn đổ xuống ngůn ngụt. Đám mây đen bęn kia sông nổi lừng lững như càng dồn cho bầu trời ứ nắng, rực nắng, sắp thiêu đốt cả mặt đất, băi ngô, cả những bụi tre xao xác, vàng cháy, đã khô cong. Người lính Tần thất thểu lạch đi. Mũi giáo chống xuống, không cňn sức lay rút lên được. Mặc đấy, phải đi. Một tay xách túm lá đựng nước cňn lại. Tàu lá cọ che đầu đă rơi lúc nào. Cả mặt, cả người trần trụi, đen củ gắm, nhễ nhại mồ hôi. Được một quăng, người ấy ngã chúi đầu, vập mặt xuống đất. Nửa mặt cắm vŕo khe đất nẻ, không nhúc nhích được nữa. Nắng vẫn đổ lửa tręn lưng người lính Tần chết đường. Anh em Đống đă về tới cửa rừng. Người và trâu đã lẫn vào bóng lá báng, lá móc diều mọc thành búi. Cái nắng ngùn ngụt đốt đỏ đuôi tóc đă đọng lại ngoŕi kia rồi. Đống vŕ Vực nhảy xuống, ngồi xệp giữa bóng mát. Miệng há hoác, thở khè khè. Hai con trâu cũng lử lả khuỵu chân, mõm quệt xuống mặt đất ẩm, phòi ra từng mảng bọt trắng. Đàn chuồn chuồn ớt đỏ rực trong nắng bốc run rẩy, chúi ùa vào bóng cây. Ngỡ như còn chập chờn ngoài nắng chỉ một thoáng nữa, đến phải cháy rơi rụi xuống đất. Bóng rừng râm mát lŕm cho cả người và trâu hồi lại, hết cơn say nắng. Vực nói cợt:
-Chắc ông quan Tần đốc lương chết nắng rồi. Đống gật đầu:
-ừ, mà cứ còn cưỡi trâu thế, chẳng gặp ai đánh, ai giết, thì cả trâu cả người rồi cũng đến chết nắng. Đă gặp vô khối quân Tần chết nắng nằm như con tôm phơi đấy thôi. Rồi Đống nói:
-Ta về mau, chả có bố ở nhà sốt ruột.
-Bố đă bảo lúc nào chúng mình về, bố mới đi mŕ...
-ừ, nhưng ngộ thế nào...
-Cũng chả biết sao. Mới hôm trước nghe nói quân Tần còn đâu bên kia mải tràn lên ngược mà chợt cái, đã kéo xuống dọc sông Cái, đông như kiến ấy rồi. Đống ngẫm nghĩ, rồi nói:
-Cả vùng đồi bãi ngoài kia quân Tần ở khắp, cắm lá cọ che nắng. Người lúc nhúc núp trong tàu lá, nắng ghê quá. Ta về gọi cả làng, đêm nay ra cho một mồi lửa. Nắng thế này, lửa bén chúng nó chết không kịp chạy đâu. Vực reo lên:
-ừ, mà đứa nào sống sót chạy vào rừng, lại được ăn phát nỏ. Phải đấy, phải đấy.
Đống vŕ Vực đến vỗ lưng trâu. Hai con trâu uể oải, nặng nề đứng lęn. Rồi cũng đủng đỉnh đi. Hai anh em lúi húi bước theo trâu. Bóng lá cŕng dần mát. Những con trâu đă lại sức. Người và trâu đã đi sâu vào rừng. Tầng tầng tán lá cây to và dây leo quấn quýt rậm rịt. Ngước trông lên chỉ thấy từng đợt sáng xanh, càng xuống thấp càng xanh thẫm. Mặt đất không một tia nắng lọt vào. Chỗ nào cũng tối ẩm ướt, bước chân mát rời rợi. Ngoài rừng, nắng vẫn rực lửa. Cuối trời, một bọng mây đen kịt lừng lững trồi lên. Vào sâu, vùng rừng lại thoang thoáng những cây báng, thân chồng chất mấy lần bắp bẹ cao quanh gốc to xù, nham nhở, như lúc nào cũng có lũ gấu ngồi xúm xít. Nhưng đấy là những xác người chết đã rữa. Diều hâu, quạ, chim lợn đã rỉa sạch từ lâu, chỉ còn trên mặt đá, bộ xương với cái đầu lâu trắng hếu. Đôi chỗ, mảnh áo quần xám cňn sót lại, bệt dưới cỏ. Rồi nhận ra chỗ tảng đá gốc cây nŕo cũng có những đám xương rũ ra như thế. Có cái nằm dŕi như bộ xương cá, giơ lủa tủa hai mạng xương sườn. Có cái rụm thành một dúm lù lù. Có chỗ cao chất đống -chắc cả bọn cùng chết một chỗ. Nhưng mùi hôi thối tan đã lâu, từ năm trước.
Quen mắt, Đống vŕ Vực không chú ý. Cứ rảo bước nhanh hơn. Có lúc đứng lại, đợi hai con trâu quơ vội ít cỏ. Rồi lại đi, giữa những bộ xương trắng nhởn. Rừng sâu càng râm mát. Bao lần, quân Tần trảy đi ngoài rừng, có khi ào ào như nước lũ. Nhưng rồi không dám vào đây nữa. Bọn đi tống lương khỏe rŕ rẫm đă biến thành những đống xác đầu rừng, mỗi ngŕy một nhiều. Bọn khác mò vào. Lại chết. Một đám nữa. Ngày ấy, có bọn chỉ mới tới cửa rừng đã nhảo ra. Nhan nhản những bộ xương trắng nhả. Khiếp quá, níu nhau chạy. Nhưng không kịp. Người trong rừng nấp gò đá giương nỏ bắn theo. Những đứa chậm chân chết ngă lăn. Lại thęm những đống xác, những đống xương. Mấy năm nay, nghe có quân Tần đi men cửa rừng, cũng chẳng ai vác nỏ ra bắn. Vẳng tiếng hô hoán xa xa. Biết cũng không đứa nŕo dám trèo qua những đống xác. Rồi quả nhiên tiếng hò hét im dần. Đã tới một dãy hang đá. Đống vŕ Vực về tới mái đá nhŕ mình. Từ năm chạy vào núi, vẫn ở chỗ mái đá này. Trong rừng, đủ cái nuôi sống người quanh năm. Quả chuối dại chát, nhưng hoa chuối thái ngâm nước, ngọt như rau ngót. Rừng bứa, giâu gia, ổi, mít, bưởi, chim thả hạt rơi mọc bạt ngŕn cây. Dưới đất, củ mŕi, củ gắm, măng tre, trúc. Rau dớn, gỗ mục thành nấm, thành mộc nhĩ. Bắt kỳ đà, bẫy dím, lập phường săn hươu nai... mùa nào thức ấy. Chẳng khác ở ngoài làng... ánh sáng xanh rờn trên cao tỏa xuống những kẽ lá móc diều trên đầu hang. Không thấy cánh nỏ của bố gác trên tai đá. Bố đi rồi. Mấy người các hang quanh đấy chạy lại. Ai nấy đă biết anh em Đống về. Chỉ mới vŕo cửa rừng, trong này nghe động lá, trông chim bay, đă biết. Người xóm giềng không lạ. Nhưng người ta kéo đến xem anh em Đống vừa đánh về được hai con trâu. Bọn quân quan Tần đă ăn hết trâu trong vůng. Đă lâu ở đây không ai trông thấy trâu.
Đi bắt trâu rừng về vực cŕy phải ngược nước xa, không ai muốn đi. Bởi chưng, kiếm cái ăn khác được. Đŕnh không có trâu bò cày, bỏ bãi. Chỉ còn thuổng làm ngô, vun khoai cho khi ra bờ sông khỏi thấy trơ trụi quá. Thế mà quân Tần kéo qua cũng đào hết cả. Người đến đông trước cửa hang. Những đứa trẻ nhŕ ai tới đă vắt vẻo tót lên ngồi lưng trâu từ lúc nào, đương giẩu mỏ lên, hóng chuyện. Một cụ già lưng rám đỏ bồ quân, hỏi:
-Các cháu bắt được trâu ở đâu đấy?
-Của bọn quân Tần, ông ạ.
-ồ giỏi! Người xúm quanh hai con trâu rồi lại nghé nghiêng mặt, rờ tay lên bắp chân, lên mông từng con một. Như lạ lùng con vật lâu lắm mới thấy.
-Trâu này có khi quân Tần lừa được từ trên ngược về. Móng còn dày, lông rậm. Trâu rừng mới nuôi chưa vực được mùa cày nào. Chưa có u vai mà. Một người chép miệng:
-Chẳng trâu đây cũng trâu nơi khác. Vůng ta đă lâu chẳng còn bóng con nào. Đống thấy hình như chưa ai biết có quân Tần ngoài bờ sông, liền nói:
-Quân Tần đă kéo về khắp các bãi rồi đấy. Đẵn bao nhięu lá cọ làm lều. Cụ già nói:
-Biết rồi, đương định cách ra đốt nó đây. Vực hỏi:
-Bố cháu đâu? ạng cụ hỏi lại:
-Thế ra các cháu đi từ tối hôm qua ŕ?
-Chúng cháu đi bắt chạch từ trưa hôm kia. ạng cụ nói:
-Bố Nồi ngược đęm qua rồi. Bấy giờ cứ tưởng réo mưa. Nghe kỹ hóa ra không phải.
Quân Tần rào rào chạy ngược ngoài cánh bãi, đi như lũ về, nửa đęm cũng chưa dứt. Không ai ngủ được. Bố Nồi đoán chúng nó lại lęn đánh vua chủ. Bao nhięu lần tràn lên, mà chưa biết được vua chủ ta ở đâu. Chúng nó lại lęn. Rồi bố Nồi vác nỏ đi. Nóng bụng quá. Đống vŕ Vực đă quen những lần bố đi như thế. Lát sau, mọi người tản về. Anh em Đống lúi húi nướng chạch. Đęm nay còn bận. Ai cũng nhớ câu ông lão dặn:
-Người nào cũng phải xách nòm ra. Nhà nhà sửa soạn cái bùi nhùi rơm. Ai cũng đã đi đốt quân Tần nhiều lần rồi. Vŕo mùa ra bãi trồng khoai, tra ngô, gặp chúng nó đến, phải đuổi chúng nó đi. Cả nghěn mái lều chỉ cho mồi nòm lửa, cháy vèo trong nháy mắt. Bọn đến sau không biết ở đấy đă cháy lều chết người, lại đóng quân lại. Thế lŕ dẫu cho chưa có gió nồm, chưa ra trồng khoai, cũng lại phải đốt cho chúng nó chạy đi nơi khác. Khắp nơi đâu cũng vặn bůi nhùi, đợi đęm. Đống vŕ Vực đă buộc được hai mồi rơm to. Lại bó tęn, cánh nỏ. Đốt rồi bắn vào đám lửa cho không dám chạy ra. Chúng nó phải chết thiêu trong lều. Nhưng bỗng trời tối sầm. Những tảng mây đen bên kia sông không ai để ý, đă lừng lững kéo lên kín trời. Trong rừng, bóng tối nhờ nhờ, thảng thốt, người như bị bịt mắt. Đương bức bối bỗng lạnh ngắt. Giữa vùng cây kín bưng, không nhìn rõ ra trước mặt. Mấy người chạy ra, ngửa mặt, kêu:
-Bão to, bão to đến nơi rồi. Hai con trâu đột nhięn chân trước chân sau như múa lên, móng va lộc cộc vào đá. Khi trời đất đương giáp cơn sắp mưa to, những con trâu đă đánh hơi biết trước, cứ chạy cuống, rống hộc hộc. Anh em Đống phải quẳng dây song vŕo cổ buộc hai con trâu đứng gốc cây. Đằng kia có tiếng quát:
-Gió to, cây đổ chết bây giờ. Cây đổ, cây đổ. Thế lŕ trâu và người tụt cả vào mái đá. Trên nóc rừng mênh mông, tiếng gió cuồn cuộn xô lên như sóng đánh. Cơn dông đương cuốn mưa tới. Rừng chuyển động, vặn měnh răng rắc. Rồi mưa trút xuống trong tiếng cây đổ ầm ầm. Cơn nước, cơn dông ŕo ạt tới. Cây đổ, nước đổ, chốc lát đă vùi cánh rừng vào ngọn nước và bóng tối náo động. Suốt đęm, mưa bão gầm thét. Trong rừng tối thui, rét run. Không biết trời đã tối hay tối trời mưa. Không biết còn đương đęm hay mưa bão đã mấy ngày đêm rồi. Chẳng ai đoán được. Nhưng điều ngạc nhięn, trong các hốc đá, ngọn lửa cứ rừng rực liên miên, tơi bời giữa những cơn gió giật trút nước ngoài cửa hang. Người đốt lửa làm cái ăn, cái sưởi. Đốt lửa lęn như thế cho những con gấu, con hổ, con rắn, con hươu chạy loạn rừng biết đấy có người. Chúng mŕy hẵng đi khe khác, hốc khác mŕ tránh bão. Đến sáng ấy tạnh quang. Không ai biết mấy ngày mấy đêm đã qua. Nhưng vẫn chưa ai ra khỏi hang. Sưởi lâu, đâm ra bện lửa. Vả lại, hơi mưa trong rừng còn lạnh tê. Quanh lửa, trong đống than, từng hạt ngô nổ, nhảy ra trắng bông. Trẻ con tranh nhau nhặt ngô nở. Mùi thịt hươu, thịt dím khô nướng thơm phức. Đô Nồi từ ngoài cửa rừng vào. Những vùng cây đổ ngổn ngang, người đi phải luồn rạp xuống mới chui qua được. Đô Nồi trčo qua tảng đá, hú lęn. Tiếng vang vào âm u. Trong các hang có người ở đều vội hú theo. Cho biết tiếng đi rừng gọi nhau. Thế lŕ Đô Nồi đă rõ trong cánh rừng đổ bề bộn, mọi người vẫn ở hang. Đô Nồi lęn tiếng cốt để chňm xóm biết mình đã về, lại nghe xem chòm xóm thế nào. Mọi người đến hang nhà Đô Nồi. Mưa đă tạnh hẳn. Đống vŕ Vực thấy bố xách một con dím lông lủa tủa nhóng nhánh. Mưa bão thế mà bố đã bắt được dím, về sớm vậy. ạng lão đầu bạc vẫn trần lưng khoác cái vỏ cây sui, đứng trước mái đá, hỏi vŕo:
-Bố Đô có gặp vua chủ ta không?
-Chẳng thấy đâu cả.
-Hay là vua chủ sa vào tay quân Tần rồi.
-Nhô ra đâu cũng chỉ gặp nó. ại, nó như mưa như băo, chỗ nào cũng thấy. Nhiều người nhớn nhác:
-Vua chủ, vua chủ... Chư ông bảo thế nào? Đô Nồi nói:
-Chẳng cơn cớ gì đâu. Vua chủ ta tránh đi nơi nŕo chưa gặp được đấy thôi. Cụ đô có nhớ đă bao nhiêu lần quân Tần trèo qua cả dãy núi Nghĩa Lĩnh. Nhiều đến không ai nhớ mấy phen mà đếm được. Vua chủ ta vẫn mạnh khỏe, běnh yên. Sau cơn loạn, gặp lại, chưa khi nào người đổi sắc mặt. Đừng lo, đừng lo, cố ạ. ạng giŕ nói:
-Thôi đă tạnh trời, đợi nắng lęn ta lo việc ra đốt quân Tần. Bố Nồi này, các con đã làm bùi nhùi cho rồi kia. Đô Nồi hỏi:
-Đốt quân Tần ở đâu?
-Ngoài bãi ngô ấy. Đô Nồi cười to:
-Tôi vừa đi qua băi ngô. Có gặp đứa nŕo đâu.
-Cháu Đống cháu Vực về cňn bảo nó ở ngoài bãi. Nhiều người hôm trước đã trông thấy nó đi chặt lá cọ mŕ. Đô Nồi lại cười:
-Mưa bão cuốn chết cả rồi, còn đứa nào nữa! Vừa bão, vừa lũ, đến cả cánh rừng này gặp ngọn nước cũng đến phải trôi phăng nữa lŕ quân Tần.
Mọi người hấp tấp kéo ra ngoài rừng, lên gò cao nhìn. Quả là không còn một tàu lá cọ, một bóng người dưới bãi. Trước mặt, chỉ thấy những mảnh ruộng rộc bỏ hoang, những vũng bùn đen lờ lờ nằm kẹp giữa hai dãy núi đất. Cả vùng lồi lõm cỏ xước nhàu nát. Dọc bãi trơ trụi, lổng chổng, như luồng bão nước ống vừa băng qua, lôi đi hết cả người, cả cây cối. Đất vạc đỏ ối thŕnh vệt. Không ai có thể tưởng trên những sườn đồi ấy hôm trước còn kín người, với những con trâu, con dê còn sống sót mà quân Tần tầm nã ở đâu về được, đem đóng gióng tre ngăn đứng từng chuồng, cạnh những con lợn bị trói, suốt ngày đêm kêu váng trong nắng lửa. Các cánh rừng xung quanh, chỗ nào cũng lố nhố người trong các hang núi ra đứng trên đồi nhìn xuống. Rồi lại như mọi khi bình thường, thấy người xuống vực, bắt cá rô, bắt ếch. Được mưa mới, đám ếch nhái kéo về băi hạn tràn nước sớm nhất. Lại những bọn người ra tìm họa may còn sót cây ngô nào không. Chẳng còn đâu. Bới kỹ, chỉ được vŕi củ khoai đứt dây trong đất, quân Tần chưa kịp móc lęn. Nắng lại rực rỡ như mấy hôm trước. Nhưng chưa gay gắt. Bởi hơi nước mưa còn lại đương phủ tręn những cây móc diều lá xanh già. Những bụi tre rập rờn, vân vân. Chập tối, trăng đă vằng vặc lọt xuống khe lá.
Người ngồi cửa hang nhìn lên thấy thấp thoáng những bóng đen bay ra, sà xuống cả trong cây. Thoạt đầu, tưởng động rừng, những con dơi ông, dơi bà to bằng tàu cau, ra ăn sớm. Nhưng không phải. Tiếng kêu rền rĩ như tiếng rên suốt từ trong rừng ra ngoài đồi. Bóng bay mỗi lúc càng nhiều. Tiếng thê thảm cứ kéo loạn bốn phía. Đấy là tiếng chim lợn. Ai nghe rõ rồi cũng nháo nhác lên. Những con chim lợn dang cánh lỏa tỏa như cành lá móc diều, đêm đến đi těm ăn xác chết. Tiếng chim lợn kęu, nghe được ở đâu lŕ đấy có điềm người sắp chết, người chết, có điều tŕn hại sắp xảy ra. Chim lợn bay rợp từng quãng trời sáng trăng. Bao nhiêu con chim lợn cùng rên lên một lúc. Người ở rừng sâu lạnh rợn gáy. Sắp chết hết giống người hay sao mà chim lợn tìm ăn thịt người chết bay ra nhiều đến thế kia. Người ta cứ chong mắt lęn cả đęm. Cũng không dám đốt lửa. Tưởng như con chim lợn ấy mŕ trông thấy đâu sáng, sà xuống, khoằm mỏ xé người ra mà ăn tươi cả đến những người sống ngồi đây. Chim lợn ra đông quá.
-Sao? Sao thế này?
-Tuyệt hết giống người đến nơi rồi, đến nơi rồi... Một cụ giŕ
-vẫn ông lão đô hôm trước ấy, đă lọ mọ từ ngoài cửa rừng vào. ạng lão vừa ra ngoài ấy nghe ngóng về. ạng lão trở về, gặp các bà lão, cả đám đương tụ lại trước tảng đá khoảng rừng lưa thưa ánh trăng. Những người đứng đây cũng đă trông rõ ông lão bước chệnh choạng giữa vệt sáng trăng và những đống xương người. Người càng nhao nhao.
-Sao ở ngoài ấy, cụ đô ơi! Sao, sao... ạng lão giơ tay, hỏi lại:
-Khoan khoan. Có ai ngửi thấy mùi gì đấy không? Nhiều người lắc đầu.
-Chẳng thấy gì cả. Trong rừng, mùi lá mục ẩm hôi hám. Bóng tối thoảng một mảng thơm hoa dại. Cũng không để ý bao giờ. Một bà lão chép miệng:
-Mùi mẽ nào đâu! ạng lão cười hê hê:
-Mũi chúng bay điếc cả rồi. Vŕo đến đây mŕ tao vẫn thấy nồng nặc lắm. Ngoài kia còn ghê bằng mấy.
-Mùi gì thế?
-Mùi người chết chứ mùi gì, đấy đấy.
-Người chết ở đâu?
-Rõ bọn này ở rừng lâu, cũng động dại đâm lú lấp ruột gan rồi. Mưa băo đęm qua đęm kia kéo lũ về vùi quân Tần chết đuối cả. Đấy, sáng nay ra có thấy mống nŕo đâu. Xác nó trôi giắt vŕo khe đá, vŕo hố, vào bụi cây, giờ mới trương thối lên, chim lợn ra tìm ăn...
-ồ ồ ồ...
-à thế. Mũi cái giống chim ma tha quỷ bắt này thính hơn mũi người ta.
-Quạ nữa, con quạ cũng nhạy mùi người chết lắm. Lúc ấy, tiếng quạ rền rĩ qua. Thối nặng mùi quá, quạ ngỡ sáng trăng là ban ngày, cũng bay ra tìm. Những tiếng quạ thê thảm như lọt lẫn vào tiếng rền rĩ chim lợn vang khắp xung quanh rừng. Một người nói:
-Thế thì không phải điềm xấu, mà điềm lành. Chim lợn ra tìm xác quân Tần, chứ tìm ta đâu mà lo. Thôi về ngủ, mai còn phải làm bột báng lấy cái ăn. Mấy hôm mưa bão, không giã được bột báng. Có đám trai vừa tới, nói:
-Ai đi soi cá thě đi với chúng tớ. Nước mới về, cá lęn nhiều lắm. Đô Nồi với cả Đống vŕ Vực cũng nhập bọn với đám đi soi cá đęm. Mỗi người, tay cầm bó đuốc nứa, tay xách dao. Như đám rước đuốc ra ngoŕi bờ sông. Có chỗ vũng nước cá lên nhiều quá, chém không xuể. Rồi cứ hai tay quơ túm vây, túm gáy từng con nhấc lên. Những thời, những giỏ đầy lên. Lại lấy dây rợ xâu mang cá, từng chuỗi. Mải mê bắt cá đến tận sáng bạch. Mỗi người trở về, vai khoác chồng đống những xâu cá dŕi lê thê. Bước lên bãi, thấy từ đằng ấy đi lại một đám người. Những người soi cá dừng lại nhěn. Hẳn đám đấy lŕ bọn vạn chài quãng sông dưới lên. Những người ấy đương đi qua vůng bãi khoai đã bị quân Tần bới tan hoang, hãy còn rõ hình từng làn dây bò vòng cung phía trên mép cát. Những người chài lưới quanh năm ở sông nước, khác hẳn người quanh quẩn bãi đồi. Phường chài ai cũng lực lưỡng, vai nở múi thịt. Vác theo nào bộ lưới, nào chân giậm, chân đó, bê chèo, chân sào, lủa tủa xủng xoẻng quanh mình. Nhưng lúc những người nhà chài ấy tới gần, Đống vŕ Vực bỗng nhảy lên, reo:
-Chú Đô Nỏ! Chú Đô Nỏ! Đô Nồi chạy tới, nhěn ra đúng trong bọn có Đô Nỏ. Cao Lỗ cởi trần, vác cỗ lưới lů lù trên vai. Trông thấy Đô Nồi, Cao Lỗ cũng kêu:
-A, bác Đô Nồi đây rồi. Rồi Cao Lỗ quay lại, nói với người vác đó đi liền sau lưng:
-Có bố con Đô Nồi... Vua Thục bước lęn, Đô Nồi mới nhận ra vua Thục đi ngay đằng sau Cao Lỗ. Rồi, lố nhố các quan lạc hầu lạc tướng
-cả vua chủ, cả các quan, ai cũng như Đô Nỏ, mọi người đóng khố đơn, cởi trần trůng trục. Quân Tần mà gặp tình cờ giữa đường, ắt cũng chỉ biết họ là người đồng đất sông nước vůng này. Người đơm đó dưới sông, người nhặt rau lang tręn bãi. Đi đâu cũng chỉ thấy mọi người thế, bọn nŕy cũng thế. Cả bọn hạ lưới, dựng đó, gác giậm, đứng lại. Vua Thục hỏi Đô Nồi:
-Đứa nŕo là Đống, là Vực? Lâu không gặp, đã nhớn khác hẳn, không nhận ra được. Rồi vua Thục nắm vai Đống vŕ Vực, lúc ấy đă cởi thời cá đặt xuống cỏ, bước đến trước mặt vua chủ. Người lŕng trong rừng ra đông, xúm quanh lại. ạng lăo lưng trần rám nắng đỏ hắt như bồ quân, cười to:
-Đă bảo đừng lo mŕ. Nó biết thế nào được vua chủ ta ở đâu! Vua Thục quay ra trň chuyện với mọi người. Đô Nồi hỏi Cao Lỗ:
-Chú xuống từ bao giờ? Cao Lỗ nói:
-Nghe quân Tần lại phạm vào đất vua chủ, tôi xuống ngay. Đô Nồi nói:
-Đęm trước tôi tìm khắp, lại phải về không. Tôi đoán vua chủ ta tránh lên ngược. Không ngờ lại xuống xuôi. Cao Lỗ nói:
-Chúng tôi xuống đường nước từ lúc quân Tần vây tới chân núi.
-Ra đường nŕo mà tránh được? Vua Thục nói:
-Lại xuống chỗ ngã ba sông Cái như mọi khi. Chỗ ấy, quân Tần không thể đánh thúc lưng được. Mŕ ta chỉ có mấy cái chài, cái nan, nấp vào đâu cũng dễ, chèo qua mặt giặc cũng không ngờ đâu. Đô Nồi hỏi:
-Bây giờ đi đâu? Vua Thục nói:
-Xuống tìm ông có việc bàn. Ta vào rừng hay ra bãi? Đô Nồi nói:
-Quân Tần về đây, mưa băo cuốn trôi chết đuối hết. Ban đęm chim lợn ra, suốt ngày quạ kêu đi tìm xác đấy. Ra ngoài bãi quang sạch hơn. Trong rừng cũng còn ngổn ngang. Cao Lỗ nói:
-Thế thì xuống thuyền hơn cả. Lúc nãy ngoài kia còn có chỗ nặng mùi lắm. Đám chài của ta cắm dưới sông sau bờ tre khuất gió. Xin vua chủ cho xuống thuyền. Đống và Vực theo mọi người về rừng. Đô Nồi cùng quân quan đi ngược trở lại đường băi ra bờ sông. Con sông Cái đến můa nước đỏ lừ, quằn quại, vật vă. Đęm ngày dòng lũ nổi cơn không lúc nào nguôi. Quãng sông ấy đương lở, ngoám vào, sắp lôi cả bờ tre xuống. Một doi cát trắng mọc mờ mờ như con hến mở miệng giữa những ngọn sóng cuồn cuộn hung hăng truồi xuôi truồi ngược. Chốc chốc, một tảng đất lở ra, ngă oàm vào mặt nước sủi sùng sục, kéo theo một cây trám cổ thụ đương quay quả rách tơi rễ gốc ra. Cây cňn vướng một nửa thân trên bờ. Những chòm rễ đã nghiêng xuống mặt sóng, như cố giãy giụa níu nhau lại. Chỉ trong chớp mắt, những xoáy nước chồm lên, nuốt cả rừng cây, cả búi tre mất hút vào vực nước đương nổi bọt. Nhưng chỉ quá vào rặng tre phía trong, sau một làn cát mỏng, ở đấy yên tĩnh, không mảy may biết đến sóng nước lồng lộn ngoài kia.
Một dãy mảng nứa ngộ, mấy cái nan, chiếc độc mộc chen khít nhau, đỗ kín đáo trong bóng tre. Mỗi làn sóng to ngoài kia đưa vào, mép mảng nứa chỉ nhúc nhích nghển lên. Người trong bãi phải ra sát mép nước mới trông thấy dưới rặng tre âm u, lại có đám thuyền bè bình yên đến như thế. Vua Thục bước xuống chiếc bè giữa. Trên bè, chiếu mộc trải kín bên những tấm vách phên tre cột nhẵn bóng như nếp nhà xinh xẻo mọc trên mặt nước. Vua Thục nói:
-Các ông còn nhớ cố ạng Trọng đã bảo ban ta, thế mà ta cũng không đối phó kịp được với cái bất nhất của Tần Thủy Hoŕng. ạng Trọng mới dặn buông lời, ta chưa ra sông Thiếp xem xét địa thế lại lần nữa, giặc đă tràn đến rồi. Lòng người thật không biết đâu mà lường. Nó muốn nuốt chửng ta, nhưng miệng nó há chưa ngoác được quá vành đấu. Mười năm không lŕm gì được ta thì không bao giờ vật nổi ta đâu. Nhưng mà ta vẫn nhớ lời cố ạng Trọng. Bao giờ xây được thŕnh trên sông Thiếp, bấy giờ mới nên cơ nghiệp vạn đại. Vua Thục lim him mắt, hai tay chắp lại. Như đương nhớ lúc cůng cố ạng Trọng đứng tręn đồi đá ong vŕng rực nhìn bao quát ra sông Thiếp. Cao Lỗ nói:
-Mới nghe tin báo tướng Đồ Thư đuối lương ăn đă phải xua quân trở về Núi Trâu. Bọn đi đốc lương chỉ sớm đi chiều về tay không. Bao lần lęn phá ta rồi lại đă phải trở về như thế. Phen này, ta hẵng tìm cách... Đô Nồi reo lên:
-Phải nghĩ kế vào Núi Trâu. Cao Lỗ nói:
-Thành Núi Trâu tôi thuộc như têm miếng trầu bỏ túi. Tôi cũng đương nghĩ làm thế nào. Hay là tôi vác ró gạo vào thành nhử nó. Quân Tần lúc này như chó đói... Vua Thục mở to mắt, gật đầu:
-Các người bàn xem. Đô Nồi thủng thẳng nói, chắc từng tiếng:
-Có cách rồi! Có cách rồi! Quân Tần hám ăn thịt trâu thui. Ta đem thịt trâu đến nhử mőm nó. Cao Lỗ nói:
-Chúng nó ăn tiệt trâu rồi. Těm được con trâu bây giờ... Đô Nồi cười:
-Hai cháu Đống, cháu Vực vừa bắt lại được hai con trâu của lính Tần đi đốc lương.
-Thế thì được quá. Ba người mải bàn luận quên cả trời đã tối. Ngoài cửa bè, các bếp nướng cá đã được bê vào. Than bắt lửa, lùa khói thơm ngậy vào trong khoang. Lát sau, trăng lên tròn vành vạnh trên ngấn nước đầu bè. Nghe tiếng sóng ì oàm xa xa mới biết con lũ vẫn đương lên. Thỉnh thoảng, một bóng chim lợn đen sě bay qua. Nhưng không nghe tiếng kêu. Không ai tưởng vừa mới đêm trước rùng rợn đến thế. Chỉ thấy bóng trăng trắng ngần. Đô Nồi nói:
-Phen này, giặc có ba đầu sáu tay cũng không thoát được. Vua Thục cười khŕ khà:
-Nhưng làm nên việc mà mất hai trâu cũng tiếc. Giặc Tần nuốt hết trâu cõi ta rồi. Cao Lỗ nói:
-Không, chỉ tốn một con thôi. Còn một con mang về, vua chủ mở tiệc cho tôi được thui. Tôi thui trâu, mỗi mảng thịt, mỗi mé da chín một khác. ạng ngoại tôi dạy cho nghề thui trâu từ thuở bé mà. Vua Thục gật đầu:
-Được rồi. Đô Nồi nghĩ, rồi nói:
-Không ai dám tranh chân chú đi Núi Trâu chuyến nŕy. Nhưng ta vẫn cứ phải cẩn trọng đến điều. Tôi cho cháu Đống đi với chú. Cháu Đống vốn kỹ tính vŕ gan liền, chú Đô biết cháu rồi. Cao Lỗ reo to:
-Hay đấy! Cháu Đống... Vua Thục nói:
-ạng Đô tính thế phải. Vừa lúc, các quan hầu bưng vŕo trong bè nguyên cả những vỉ than hồng rực. Vua Thục hỏi Cao Lỗ:
-Biết thui trâu, có biết nướng cá không?
-Nghề nướng cá, trước phải biết lóc cá.
-Giỏi, giỏi... Tinh mơ hôm sau, sương còn lan mù mịt khắp bến bãi, đã nghe tiếng móng trâu lóc cóc, huỳnh huỵch trong rừng ra.
Cụ già dậy sớm ngồi cửa hang nhớ những năm còn bình yên, trâu bò đứng quanh nhà, sớm sớm, con chơi nhởn, con đợi đi với người xuống bãi. Có người nhìn thấy ở trong rừng ra, Đô Nồi cưỡi con trâu đi trước, Đống dắt một trâu theo sau. Bố con đi đâu sớm thế. Tan sương, tręn bờ sông lại thấy Cao Lỗ và Đống cưỡi trâu đi. Đô Nồi cňn lẽo đẽo theo đến lúc mặt trời lęn ngang ngọn tre mới dừng lại. Hai chú cháu sang Vũ Ninh. Cứ đi đến giữa trưa, trời nắng to, lại nghỉ, vŕo rừng kiếm cỏ tốt trâu ăn. Đống tắm sạch sẽ cho trâu. Mông trâu nổi bóng trňn khoáy. Người và trâu thong thả vừa đi vừa nghỉ ngơi, chẳng vội. Hôm sau lại đi sớm. Tới lúc nắng gắt, tìm bóng mát, dừng chân như hôm trước. Thảnh thơi, cốt cho con trâu kịp mỡ màng lại sức, trước khi về đến Vũ Ninh. Mải tính, mải làm, không để ý cả nỗi hiu hắt dọc đường. Lắm hôm suốt ngŕy chỉ đi qua những dăy đồi trơ trọi. Cả vůng làng xóm bị đốt từ lâu. Dây bìm nở hoa xanh dại, ngẩn ngơ bò trên cột nhà cháy đen. Không một bóng người. Nhìn ra, Cao Lỗ nói:
-Người già thường ví rậm người hơn rậm cỏ. Chỉ vì giặc Tần mà nên nông nỗi này. Đống trông quanh mình, thấy chơ vơ thế, chợt cũng rầu rầu nghĩ. Cao Lỗ vốn người quê ở Vũ Ninh. Mọi đường ngang ngõ tắt ở Núi Trâu, Cao Lỗ thuộc lòng. Đã mấy năm, quân Tần đóng trong thŕnh, Cao Lỗ vẫn biết nơi ăn ở, mọi ý nhẽ đi lại của quân quan nó. Đă về tới chân thành Núi Trâu. Cao Lỗ tìm vào một cánh rừng trúc cho trâu nghỉ mấy hôm. Cao Lỗ bảo Đống đi chặt măng để trâu ăn thęm. Lại dắt trâu xuống tắm suối. Rồi kéo trâu vào nằm mát dưới bóng cây. Không để lộ một vệt móng chân. Ngày ngày, Cao Lỗ mò vào thành nghe ngóng. Lệ bọn nhà bếp các trại quân thường ra bờ sông vác nước chiều chiều. Cao Lỗ đă biết đích chỗ bến bếp dinh tướng Đồ Thư. Chiều hôm ấy, Cao Lỗ buộc một con trâu đứng lại một měnh trong rừng trúc. Đề phňng chưa được, cňn tính việc sau. Cao Lỗ ung dung cưỡi một con trâu đi. Con trâu quý, cổ quấn vňng thòng lọng dây mây, có Đống thong thả đi trước dắt. Cao Lỗ cởi trần, một bęn sườn gài chiếc ống bương to, mặt đã lên nước bóng nhoáng, -ống uống nước, ăn cơm hay để đựng mắm muối gě cũng được. Lại đeo thęm cái kẹp mo gói cơm, như người đi việc quan ở xa về. Trâu được tắm táp nghỉ ngơi mấy hôm, trông phổng phao hẳn ra. Mình trâu đen nhánh, bụng mông tròn nây -đã ra dáng bước khệ nệ của con trâu nặng thịt. Mấy năm nay họa hoằn mới gặp được con trâu ngoŕi đường cái. Thế mŕ có con trâu béo tốt như vầy cứ thủng thỉnh dọc bờ sông, thật là một của lạ. Ai tinh mắt cũng đoán được trâu ấy không phải trâu cŕy, mà trâu thịt. Trời đất này, rước trâu thịt đi cho hổ xơi chăng. Không phải, đây chắc lại bọn trộm trâu hay phường thui đem bán. Hay lŕ quân quan vừa bắt được trâu trong lŕng. Nhưng trông bọn người lớn bé này không phải lính kẻ Tần. Chẳng hiểu ra sao, thật khó đoán. Thành Núi Trâu trước mặt. Thế nào mà người cưỡi trâu, người dắt trâu cứ lùi lũi đi vào phía mất của thế kia. Trong thành, thấp thoáng người đi vội vã. Mười năm nay, chẳng còn mấy nhà ở lại các phường. Người đã bị đóng gông chết cả. Hay trốn tránh đi đâu. Bọn quân Tần lũ lượt kéo xuống sông lấy nước. Kẻ xách thůng gỗ. Kẻ vác ống vầu cao lêu đêu, như người trong làng. Một bọn đứng tụ lại, ngây nhìn con trâu và người cưỡi vắt vẻo. Lại có chú bé dắt đi bước một, như rước trâu. Có người kęu:
-Con trâu béo ngon quá. Một người đuổi theo, quát to:
-Bắt lấy! Bắt lấy! Cao Lỗ quay mặt lại, hét:
-Càn rỡ gì nào! Trâu này quan Đô úy đem biếu tướng quân. Đứa nŕo thử đụng vŕo cái mông trâu xem, toi mạng ngay. Không nói giỡn đâu.
Bọn nhà bếp đứng trân trân nhìn theo. Có người mới nghe nói thế, đã sợ lôi thôi, xách thùng lảng xuống bờ sông. Đống dắt trâu, bước càng nhẹ nhàng. Tin lan khắp nơi về con trâu của quan Đô úy đem biếu nęn mới có người cưỡi người dắt oai thế. Ai nhìn cũng tấm tắc khen trâu béo. Chỉ đứng trông theo, không dám lôi thôi. Cao Lỗ lên mặt thành thạo, vừa bảo Đống, lại như nói với người ven đường:
-Đường nŕy, đường nŕy vào bếp. Đi tắt cho chóng. Đứa nŕo người nhà bếp, vào bẩm tướng quân ra xem con trâu béo rồi tao mới thui. Được con trâu sướng mắt thế này không phải dễ đâu. Phải lùng vào giữa rừng mới tìm ra chỗ các làng giấu trâu đấy.
-Được nhiều không?
-Mấy chục con mà.
-Sướng quá! Bọn đứng quanh bỗng vui quá, thčm quá, kêu lên. Rồi xúm xít đi quanh con trâu vào dinh. Quả thật, giá có ngả được con trâu, không ăn nổi miếng thịt miếng gân, chỉ gặm được mẩu xương quân quan cũng hả. ở Vũ Ninh, gần đường quân lương Nam Hải tải sang mŕ còn đói vêu vao thế, huống chi quân đóng tận những đâu xa. Thčm cái ăn cái uống quá. Người các lŕng trốn đi hết, không đŕo đâu nổi một miếng. Lại můa nắng đổ lửa xuống, người ta có để sót lại vůng lúa chăm, lúa ma nŕo, lúa cũng chết queo khô hết. Chẳng bắt nổi con cá ở đâu, đừng nói. Cả đến con rắn ráo, con giải, con thuồng luồng sợ nắng cũng chạy hết lên nguồn. Đói quá, đă có người lên ngọn nước tìm bắt. Nhưng không thấy đám nào lên đấy còn trở về. Trên ngọn nước, cá sấu và con hổ, con báo ngồi một lũ như tảng đá, rình mồi. Khốn nỗi cả đến cá sấu và con trăn trên ấy lúc nào cũng đói. Không ai dám đi nữa. Lâu lắm mới lại có người dẫn con trâu đến bếp. Quân Tần mới biết můi, mà ai cũng thích thịt trâu thui chấm bỗng gừng. Khi nào được trâu cũng phải tìm phường thui đến. Tướng Đồ Thư thấy người nhốn nháo ngoài cổng, bèn từ trong dinh bước ra. Cao Lỗ không biết mặt Đồ Thư, mà cũng đoán biết ngay. Hai hàng lính dựng ngược giáo, từ trong thềm tiến theo Đồ Thư. Mặt quân mặt quan khác nhau, dễ nhận được. ạng quan da dẻ đỏ lựng, có bộ râu ria đen nhánh, mặc tấm áo lụa phanh cả hai vạt. Cao Lỗ sụp xuống, cúi đầu, nói to:
-Quan Đô úy có con trâu đem biếu tướng quân, sai phường thui tôi... Đồ Thư vuốt râu, cười khŕnh khạch. Cao Lỗ lại nói:
-Quan Đô úy dạy tôi thưa tướng quân rő trâu thịt để cách đęm bị ngót, xin cho phường tôi thui ngay. Rồi chúng tôi lại phải về ngoài thành trong đêm để thui trâu khao quân ngoài ấy cho được ngon thịt. Một ông quan bước ra:
-Tướng quân lệnh cho phường mày thui trâu. Mỗi khi Đồ Thư cùng bọn thủ túc nhớ lại lời vua Tần truyền năm trước ở Hŕm Dương:
"Nước Œu Lạc nhỏ như cái đấu, ta đong vŕi đấu hết người", cả bọn lại cười ngất. Đă ngoài mười năm rồi, mà chưa biết còn phải bao nhiêu năm nữa mới đong được hết người Śu Lạc. Nhưng quả là tướng ngồi trong thành khác quân đi trận mạc, quân đi thúc lương lam sơn chướng khí rừng sâu núi thẳm nắng nôi chết đường. Cũng đôi lúc nóng lňng, thở dài, nhất khi oi bức thường này. Nhưng rồi ngày ngày quân quan đi đốc về được các thứ lạ mắt, lạ miệng. Những của ngon vật hiếm chưa bao giờ thấy. Lúa làm kẹo mạch nha. Mía kéo mật. Gạo cẩm nấu rượu. Những quả ngon có ở phương nam, nào chuối mắn, chuối lá, nào nhãn lồng, nào dừa. Các thức nhắm, trâu thui, cá anh vũ, chim dẽ, sâm cầm, vịt trời, một đời chỉ khi đến đây mới được thưởng thức. Cứ thế, lần lữa...
Một hồi trống lệnh nổi lên. Cả vùng sân nhà bếp, hai hàng lính cầm dựng ngọn giáo, đứng dàn rộng ra xung quanh. Tướng Đồ Thư đích thân ra xem thui trâu. Tướng ngồi ghế tựa, cởi trần, bęn chiếc bàn độc đặt tước rượu cẩm. Cao Lỗ cầm con dao mổ của quân nhà bếp vừa đem ra. Đống ôm rơm, chạy đi chạy lại, thoăn thoắt. Trong nháy mắt, đă chọc tiết trâu xong. Một mình Cao Lỗ cõng con trâu từ dưới bờ sông lên đặt giữa bãi cỏ. Quân Tần tíu tít khiêng rơm đến. Đống nhanh nhẹn gẩy rắc rơm quanh trâu, chỗ dŕy, chỗ mỏng, rõ thạo tay thui. Phường cả Cao Lỗ vào ngồi ghế đẩu. Trước khi châm lửa, người phường thui thường ngồi nghỉ thong thả thế. Chỗ ấy đă được bŕy ra một cơi trầu cạnh một đĩa đčn. Cao Lỗ cởi ống bương ở lưng, cầm cả liễn nước chè tươi đổ vào ống. Thì ra ống ấy là cái bát. Cao Lỗ uống một hơi. Mồ hôi trán vã đầm đěa. Lúc vào thui, thỉnh thoảng Cao Lỗ lại nghỉ tay vào uống nước ăn trầu, để Đống dọn dẹp rồi lại ra hơ. Cao Lỗ nhặt miếng trầu đưa lęn miệng, mắt đảo nhanh sang chỗ Đồ Thư ngồi giữa sân. Một hŕng quân như bờ rào dàn ngang trước mặt. Lại có thêm mấy viên quan đương xúng xính ra. Nghe có phường thui giỏi, ai cũng ra xem. Quân quan bắc ghế ngồi quây quanh chiếc bàn độc xế tay phải Đồ Thư. Chủ tướng Đồ Thư đương nâng chén. Từ chỗ Cao Lỗ đứng đến chiếc bàn độc có tầm ngoài mười sải chân. Cao Lỗ lại ngẩng mặt nhìn vòm trời tối đen. Chốc nữa, lửa nổi lên, oi bức thêm, nhỡ nó lùi vào nữa, chưa biết thế nào. Cao Lỗ khấp khởi lo. Dù sao, Cao Lỗ vẫn đứng dậy, nhẹ nhàng bước ra bãi. Đống ngồi lại cạnh cơi trầu, tay uốn éo vặn con cúi rơm để chốc nữa hơ lần cuối. Cao Lỗ thổi bůi nhùi rồi châm vào đống rơm đă được phủ lęn khắp mình trâu.
Lửa nổi đůng đůng. Trời đęm nóng rực chẳng khác ban ngày. Vòm không đen kịt. Những ngôi sao nhấp nháy, cũng như những đốm lửa. Bọn quân túc vệ đứng gần sợ rát mặt, đă lùi xa cả vào mái trong. Những người khiêng rơm đến, vừa ló ra, quẳng rơm, lại nhảo vào ngay. Nhưng vẫn nhiều lính ra đứng xem. Người phường cả thui trâu khéo như múa gươm, ai cũng phải trố mắt nhìn. Cao Lỗ nhanh như vượn, thoăn thoắt nhảy quanh bốn góc, luôn tay gảy rơm, tay quạt. Lúc nŕo rơm cũng cháy đượm đều từng mảng lửa. Rồi Cao Lỗ vŕ Đống lại giơ tay lật měnh trâu ngả hai phía. Bốn vó trâu cong lên. ấy là lúc người phường thui khó nhọc nhất, mà phải khéo tay. Cao Lỗ cầm chiếc que cời dài bằng cả chiếc đòn càn. Cao Lỗ cời nạm rơm đương cháy rừng rực áp vào khoeo trâu, vào nách, vào cổ, mọi chỗ lồi lõm. Xong đâu đấy, đốt con cúi cầm tay, cúi xuống, dán mắt vŕo từng chỗ, hơ lại lần nữa cho khoảng thịt ở miếng khúc khuỷu nào cũng được tái đều. Tręn mình Cao Lỗ rườn rượt mồ hôi ướt như đi giữa trận mưa rào. ánh lửa nhấp nhoáng, nhễ nhại. Cao Lỗ vẫn vờn quanh con trâu, áp bùi nhùi lửa vào từng mảng. Lát sau, Cao Lỗ vứt đuôi con cúi rơm xuống đất rồi ném chiếc que cời lên những nạm than rơm rực đỏ trên sườn trâu thui.
Cao Lỗ quay lại, chắp tay vái vào chỗ Đồ Thư. Đồ Thư vẫn ngồi nguyęn như lúc nãy. Cao Lỗ kính cẩn không dám đi ngang phía ngoài nơi quan ngồi, mà cứ bước giật lùi vào chỗ khay trầu cau. Thui trâu đã xong. Chỉ còn giội nước cạo sạch rồi khiêng đi mổ. Cao Lỗ ngồi xuống cánh phản, nhấc cái đuôi khố vắt lęn bẹn. Đống đă thuộc hiệu vậy. Đống bưng chậu chạy ra chỗ những ống nước dựng khuất ngoŕi cổng. Lúc đợi trâu chín ngấm, Đống hẵng lấy chậu nước vŕo cho bác phường cả lau mặt. Đống khięng ống nước xuống. Nước ồng ộc chảy ra. Nước chảy tràn xuống cỏ mà Đống không để ý. Đống vẫn đứng nán lại ngoŕi ấy, khuất trong bóng tối, nhớn nhác nhìn vào... Trong kia, Cao Lỗ lại thong thả cời cái ống bương, nhấc liễn đổ đầy nước chè tươi, đưa lên miệng. Cao Lỗ uống nước, nghiêng ống, chớp mắt nhìn. Giữa sân, tướng Đồ Thư, mặt rạng rỡ vẻ thích thú vừa được xem thui trâu. Tướng Đồ Thư buông cái quạt lông trĩ, nâng tước rượu cẩm, nhấp giọng. Bọn quân quan đứng lố nhố quanh bŕn. Cái ống bương Cao Lỗ uống nước đă đưa lęn ngang mặt, tì vào má. Sắp hết nước, không thể để mãi cái ống bương thế mà nhìn trộm quan. May quá, các quan đã bưng rượu giãn ra, lui về chỗ cũ, ngồi uống chén rượu thưởng của chủ tướng. Một cơn gió mát dịu thổi tới. Đám lửa than tręn mình trâu bỗng rực lên. Cao Lỗ đưa tay, ấn cái trôn ống bương. Hai cánh nỏ uốn ôm quanh đầu ống bật ra. Phát tęn bay biến vào sáng đèn lẫn sáng lửa rơm và bóng tối. Tướng Đồ Thư ngã lăn trên kỷ xuống giữa sân. Quan quân nhốn nháo, tán loạn. Máu cổ Đồ Thư phun ňng ọc như con trâu bị chọc tiết lúc nãy. Người la hét, chạy tứ tung. Thuận tay dao mổ trâu, Cao Lỗ chém xả mấy người chạy qua trước mặt, không biết quân hay quan. Có người toạc rời vai ra, còn kêu rống. Lại càng loạn xạ. Đống đă chạy trước xuống đợi Cao Lỗ dưới bờ sông. Ngay đęm ấy ra rừng trúc, dắt con trâu còn lại, hai người đi cả đęm về Chiêm Trạch. ít lâu sau, tin bãi binh từ Hàm Dương đã sang tới Œu Lạc. Quân quan Tần nhảy cuồng lên. Chẳng biết sướng quá hay sợ quá. Không ai bảo được ai nữa. Trong thŕnh ngoài nội khắp nơi hốt hoảng, hấp tấp, hỗn độn, lung tung. Rồi tranh nhau chạy thục mạng. Không biết đâu có cầu, có bč mảng, có phao, có thuyền. Cứ trèo lên nhau rồi lại víu nhau lại. Gặp đầm vực, gặp sông, không dám ngoảnh đầu, thế là đùn nhau lao cả xuống. Mùa nước đương theo các ngọn lũ về, khắp nơi lụt lội. Quang cảnh sông lũ cực kỳ rùng rợn.
Trên các triền nước phù sa đỏ như máu, từng đŕn diều hâu, đŕn quạ và chim lợn lại ra ăn ban ngày trái lệ thường. Tất cả quần lại, bay là là thành những đám mây đen ngňm thấp ngang mặt nước. Đŕn chim đuổi theo những xác chết. Tręn sóng nước xoáy ào đi, xác người ngổn ngang chen bên những cây gỗ mục trôi băng băng. Quạ, chim lợn, diều hâu ẩn nhau đổ xuống những xác chết trôi, rỉa rúc mải mê đến lúc xác người bị móc rữa chỉ còn lại bộ xương đương chìm dần. Chợt thấy nước ngập tới lưng bụng, chim mới hối hả cất cánh. Từng đám lại bay tìm trên xoáy nước, hăm hở, cuống quít đuổi theo, sŕ xuống những cái xác khác. Dòng sông cứ sẫm đỏ, sẫm đen như thế ra mãi cửa bể ngoài Ninh Hải.
III
Tướng quân họ Cao tên Lỗ, người Vũ Ninh. Thời An Dương Vương, tướng quân được vuốt thần Kim Quy, chế ra nỏ linh quang thần cơ. Đem nỏ bắn vŕo quân giặc, chúng không dám đến gần. Tướng quân đă nhiều lần đánh lui được giặc, lập công lớn. Sau bị lạc hầu dèm pha rồi An Dương Vương trừ bỏ.
Vũ Quỳnh và Kiều Phú (Lĩnh Nam Chích quái)
Cao Lỗ có công giúp vua Thục đắp thŕnh Cổ Loa rồi làm lẫy nỏ thần. Thành đắp đă cao mà chỉ một đêm, bị sập xuống như đất bằng. An Dương Vương ra xem nơi thành đổ, ngẩng mặt cầu trời phù hộ. Một ông lão râu tóc bạc phơ, từ xa đến, mà rằng:
"Sáng mai nhà vua ra bờ sông đợi, sẽ gặp giang sứ". Sớm hôm sau, An Dương Vương ra bờ sông. Thấy một con rùa nổi lên, từ phía đông bơi vào. Tự xưng là thần Kim Quy. Vua hỏi kế đắp thŕnh. Thần Kim Quy làm bùa yểm ma xong rồi rút ra chiếc móng trao cho An Dương Vương, dặn: Móng này làm lẫy nỏ giữ thành. Một phát chết nghìn giặc.
(Ngọc phả Thục An Dương Vương đền Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hŕ Nội)
* * *
Ngã ba sông Cái mênh mông suốt cửa sông Thiếp, sông Lú
-cả đến những băi cát lẫn dòng nước cũng đỏ ối tới chân trời. Mấy con chim bói cá vẫy cánh đứng tręn xoáy nước xoay tròn, chốc lại nhào xuống. Những con rùa đương bơi, thình lình vươn cổ lên. Con chim bói cá vừa bổ ngang tầm, hốt hoảng hất bay. Như ai ném xuống rồi lại đón khỏi mặt nước chiếc hoa móng rồng nở cong cánh. Bói cá lại ra khoảng nước chỗ khác, chấp chới nghięng nhòm xuống rình bắt mồi. Đàn rùa bơi lướt qua. Những bàn chân rùa đạp nước khoan thai như những chiếc bê chèo. Người các cõi về đắp thành, đi giữa trời nước ấy -như những đám trảy hội. Trong ánh nước, tiếng hát rập rờn thoang thoảng khắp các vůng đồi băi hai bên bờ. Khăn vuông ai đội Khăn điều ai vắt vai Ai đi nhớ Về thương Khăn điều ai vắt vai ai Chưa bao giờ các nơi sông hồ, các đồi đá ong vůng Kẻ Vang, Kẻ Nhồi đông vui đến thế. Suốt dọc sông, tấp nập người đắp tường thŕnh. Không phải chỉ người đi, mŕ người đến ở. Như mỗi khi můa gặt tới, các làng dọn ra ở đồng, dựng lều lán lên. Xung quanh quây nứa, thả con lợn, con trâu ngoài bãi. Khói thổi cơm nghi ngút. Tiếng trẻ con buổi chiều hờn ời ợi. ở đây cũng thế. Nhưng không phải thời mùa màng, mà các lều cứ dựng san sát. Trời vừa dựng sáng, người đã tấp nập ra. Những gò đất được đắp lęn, đứng trňn như cây rơm. Dưới những ao chuôm vừa đŕo sâu hũm, người lũ lượt xuống đội đất. Những khoảng băi trống phơi đất luyện được nắng, đă khô trắng. Đằng xa, không biết người ta đốt lň hay cháy rừng, hay thui lợn, khói cuồn cuộn bốc. Trước mặt, từng bọn trai tráng cởi trần khố bao, tóc dài ngang lưng. Lắm đám đứng lẫn lộn cả với các chị áo ngắn váy cao khăn vuông trům chỉ hở hai con mắt
-những người đội đất. Một lũ gánh gồng cỏ cho ngựa. Một toán cụ giŕ đứng bện chăo. Mấy cụ ngồi lẫn trong đám, bưng bát uống nước chè xanh. Khói thơm ngọt như mật mới. Người bước trong lều ra, te tái đến chỗ này, sang chỗ kia, mỗi nơi mỗi việc. Chẳng mấy lúc, các chạ đã khiêng ra những thúng cơm tẻ, những nia cơm nếp bốc khói. Lại vác ngổn ngang đến những xâu thịt nai, thịt hươu cùng với những ống tre đă róc vỏ, cháy sém những ống cơm lam vừa chín, còn nóng hầm hập. Đám các làng chạ đằng kia đă dọn cơm rượu. Những nơi khác còn mê mải làm. Những đống đất cao bằng gň. Chiếc cung căng dây xắn đất đem phơi. Mỗi tảng đất trňn thu lu như cái thúng đại, thuốn lỗ xâu giữa. Một chiếc chăo dài thòng vào. Hàng dãy người gò lưng đứng một lượt kéo từng tảng đă khô xác lên đỉnh gò, rồi dòng xuống bên kia, xếp lên từng khúc tường thành cứ vòng tròn cao dần.
Xa xa, không biết phía nào, tiếng hát cất cao lên. Những gò ụ tường thành mỗi hôm trông lại thấy cao hơn đầu người hôm qua. Rồi đến khi phải đội nhau trčo lên mới đắp được. Người cŕng đông xúm xít quanh các bờ tường, các bậc đá, các dốc cỏ mỗi lúc một khác. Thế mŕ người các nơi vẫn kéo về đông. Những túp lều xúm xít nối nhau ra tận ngoài cửa sông Thiếp. Những cô phường đấu người Chu Diên đội từng tảng đất nạc vừa vác dưới chuôm lęn. Các cô đi một lượt, vắt vẻo hai tay, khăn vuông đen, áo cánh, váy xắn quai cồng. Người mảnh dẻ như chiếc măng trúc, mà sao đội vác được nặng thế. ấy cũng bởi vốn người vůng bãi, năm nào cũng phải nạn nước lụt. Nhà ở phải đào vực lấy đất đắp thŕnh gò san nền. Sau mùa nước, lại đào đắp lại, năm nŕo cũng thế. Vậy nên phường đấu giỏi đội, không đâu cổ cứng bằng người đất băi ở Chu Diên, ở Mi Linh. Tiếng hát chập chờn đưa các cô đội đất lại gần. Không biết tiếng hát các cô đội đất toán ấy hay toán nŕo đằng kia. Phía nŕo cũng nghe văng vẳng tới. Một cô phường đấu người mảnh khảnh. Tảng đất to hơn chiếc thúng cái ngất ngểu tręn đầu. Cô đi lęn trước. Đến khi cả bọn tới, trông cô ấy cũng lẫn vŕo với các cô khác. Váy áo giống nhau, chiếc khăn vuông tům hụp, kín mít. Đi qua chỉ thấy lấp loáng một ánh mắt vŕ nụ cười hệt nhau. Bọn các cô phường đấu đương rồng rắn đi tới. Bęn kia, đứng đầu chăo chuyển đất tảng vŕo chân thành, những người trai làng ngẩng đầu nhìn sang toán các cô phường đấu. Tiếng "dô huầy dô huậy" lại rầm lên. Cái chão căng thẳng, thả đất từ tręn mỏm gò xuống vực móng vừa khéo, tảng sau khít tảng trước, như khớp quánh lại. Mồ hôi ròng ròng trên mình những người kéo chão. Khố vắt đuôi lươn, ngực trần, lưng vai bắp căng múi. Tảng đất theo chăo buông theo tiếng "dô huầy" lại rộ lên rồi thầm thì cho đến lúc tất cả rời tay, cùng reo à một tiếng giật mình. Tảng đất đă lại khớp vào hố móng. Những cô vừa đội đất đến cũng lao xao nói sang:
“Khéo quá! Khéo quá!" Một người trai trẻ đưa cůi tay gạt mồ hôi trán, nhìn ra. Những người con gái đã đi qua trước mặt mà tiếng hát vẫn rập rờn đâu đây, xa xa gần gần. Có phải tiếng hát của những người đội đất vừa lướt qua. Không chắc. Hěnh như phía nào cũng đương xôn xao, phảng phất tiếng hát. ánh mắt những cô gái đội đất lúng liếng sang. Các cô đi qua, đưa mắt nhěn trộm các chàng trai lại đương căng tay kéo chăo, buông từng tảng đất, từng tảng đá ong xuống lòng móng tường. Lúc ngẩng lên, càng náo nức. Bao nhiêu đôi mắt thiết tha, những nụ cười lại tíu tít khúc khích trong làn khăn. Biết ai vào ai. Rồi tiếng hát lại cất cao. Tiếng hát, tiếng cười và những dòng người đội đất đă đi khuất vŕo những gò đá ong tận đằng kia. Người đắp thŕnh vẫn về thêm nhiều. Đông đến độ không ai chỉ vẽ ra đâu đám người lŕng hay đâu lŕ quân quan vua chủ. Bởi việc quân cơ bấy lâu đă được sắp đặt đâu ra đấy. Các cői nuôi quân tuần phòng, cấp gạo, mắm muối. Kho vua chủ phát áo giáp da trâu, mũ da trâu phết sơn điều cho quân lo trận mạc quanh năm. Các chợ đều có quân đốc binh ngồi lấy da trâu về thuộc lŕm giáp trụ việc quân. Cõi nào cũng sắp sẵn các kho binh khí đã quy rõ số mục từng nghìn nỏ cánh hóp đá, bồ tên trúc chẻ, rồi câu liêm, cán giáo dài đánh bộ, đánh ngựa, đánh thủy, đủ lệ. Cả đinh ba mũi đồng, mộc gỗ mít, khięn ken năm tầng dây mây, ba lớp song uốn. Mọi cái đủ bộ rồi mỗi năm hai kỳ mở cuộc tập luyện, lŕng chạ nào cũng như vào hội. Lại cứ đầu mùa nắng, con voi, con ngựa ở hoang trong rừng đương kỳ sinh nở, các phường săn đi lůng bắt voi, ngựa con về vực cho thuần thành voi chiến, ngựa chiến.
Khắp các cõi răm rắp một phép vua. Một trăm mũi tęn trong máng nỏ bắn ra cùng lúc. Bao năm, đâu đấy một lệnh. Ngoŕi bãi, trong làng, trên ngọn nước, trong thành đều sẵn sàng mà thuận hòa. Đâu cũng nức tiếng đồn có được bọn ông Đô Lỗ, bố con ông Đô Nồi với nhiều người tŕi ở xa về giúp dập vua chủ, đất nước được vỗ yęn từ ấy. Lạ thay, không ngạch quân, không cơ ngũ, mà có cả. Cứ đến kỳ tập giáo, tập khiên, đánh roi, đánh ngựa, trai tráng các vůng tụ hội đủ mặt. Xong đâu lại về đấy. Năm nay, khí thế khác hẳn mọi năm. Người về xây thŕnh vua chủ, lại người được gọi, như mọi khi hội quân các cői. Đâu đâu cũng tấp nập. Trai tráng cả nước đóng khố ba bảy, cởi trần đi đông nghịt về đắp thŕnh. Đông hơn hội quân! Các lăo bà, các ả ngoài nội trong thành kéo ra. Chiều đến, người phường nào, chạ nào tụ tập lại. Dọc sông sáng rực đuốc đóm. Chỗ hát xoan, hát thương hát nhớ, chỗ đấu roi, đấu vật, rộn rã đến khuya. Hôm sau, quanh thành lại như mọi hôm, hàng hàng người đội đất, người nắm chăo kéo đá ong quanh co lęn các mép luỹ. Có đến trăm nghěn đám kéo chăo, biết đám nŕo là đám chàng trai hôm qua gặp các cô phường đấu đội đất? Cụ giŕ râu bạc phơ đứng trong nắng, trần lưng, vặn những thanh giang đánh chăo. Trong mọi đám lŕm nhà, dựng lều, việc bện thừng chão, đâu cũng các lão ông làm. Tay cầm mảnh giang, mảnh nứa, vỏ sui, sợi móc diều, đấy là công cả năm đi těm chặt về, nào ngâm, nào phơi, nào chẻ, cứ chất đống lại. Chỉ có người giŕ mới biết nhặt nhạnh kiên tâm, kỹ tính đến thế. Trên bãi dưới sông, bốn phía lại tấp nập ngổn ngang những người là người.
Một bọn các cô gái vừa trở lại, đi qua đám con trai đương cắm cúi luồn chăo xâu những tảng đất đá ong. Các cô về vắt vẻo đi tay không. Tręn khăn vuông đội đầu chỉ cňn lại mảnh lá cọ lót. Người trai buông chão, ngẩng mặt nhìn ra, cười hỏi:
-Này ai ởi! Người đâu mà hát hay thế? Một cô gái đáp:
-Chúng em người chạ nhà thôi.
-Mi Linh hay Chu Diên đấy?
-Liền anh ở đâu ta hẵng cho chúng em biết trước đă.
-Cũng người Chu Diên, Mi Linh mà.
-Này liền anh ởi, thế thì làng trên chạ dưới rồi. Đám trai cười vang. Bên kia, những tiếng khúc khích, và cả những miệng cười nụ không ai nhìn thấy. Vẫn chỉ thoáng những ánh mắt. Bấy nhiêu cô, cũng giống một cô như thế. Nhưng một người trai đã đứng lên, nói to:
-Không, không phải. Nói dối rồi. Xưng là người ở đây mà không tường mặt tướng quân Cao Lỗ à? Gái cõi nào mà khéo đưa đẩy mồm miệng thế?
-Tướng quân Cao Lỗ... Người con gái từ nãy đối đáp với chŕng trai vừa nói dở câu ấy rồi dường như ngạc nhiên, im lặng, ngượng nghịu, lúng túng, quơ tay lên đầu, kéo mảnh lá cọ xuống. Nhưng mảnh lá cọ đă bay lúc nào. Cô luống cuống, sợ hãi. Tướng quân Cao Lỗ đấy ư? Người đứng đầu chăo kéo đất hay người nói như tự xưng ấy. Không, ai thì ai, cũng chắc là phải có tướng quân Cao Lỗ trong đám kéo chão bên ấy, người ta mới nói thế. Làm sao mà từ nãy vô ý dám chớt nhả xấc xược đến thế. Chết rồi. Cô gái cúi nhặt tàu lá cọ cầm trên tay, nhìn sang. Nhưng trong làn khăn vuông, trông lại cũng vẫn chỉ thấy một ánh mắt. Không ai biết cô gái ấy đương hốt hoảng run rẩy. Người trai trẻ vừa nói, lại buông chăo xuống, cười mỉm.
-Phải, tôi là Cao Lỗ. Cao Lỗ tôi được vua chủ sai ra đắp thŕnh. Nghe câu nói nhẹ nhàng vậy mà cả đám các cô gái lập tức ngồi xệp chân xuống, xếp bằng, xòe hai bàn tay trên mặt cỏ, đầu cúi rạp.
-Chúng tôi không được biết để lạy chŕo. Xin đức ông tha tội chết cho. Một bọn xe trâu tải đá ong trong đồn đương lũ lượt ra. Từ đây vŕo vùng quanh rìa chân núi chồng chất, trập trùng toàn đồi đất đá. Người ở các vůng ven rừng đắp tường nhŕ đă thạo đường vŕo đŕo đá ong. Mấy nhát thuổng, bẩy lęn được tảng đất thó vŕng lỗ chỗ. Chỉ vài nắng đã rắn thành đá. Tường thành đương xây, trong đất luyện, ngoŕi đá ong. Suốt ngày, những đàn trâu kéo chiếc xe quệt
-cả cây gỗ rỗng lết sau lưng trâu, trên chất đống đá ong đưa ra, xếp cao thŕnh gò quanh thành. Những chiếc xe quệt trâu kéo đương hùng hục tới, không biết có bọn người lố nhố trước mặt. Cao Lỗ quát to:
-Thôi thôi, đứng lęn. Đất đương đợi người đội kia mŕ lại ngồi đấy cho trâu xéo chết a! Cả bọn khép nép đứng dậy rồi đến lúc lůi được ra tận đằng xa mới dám quay mặt đi thẳng về phía đống đất. Cao Lỗ tần ngần nhěn theo.
-Quái, sao trông các cô này quen quen. Một quan lạc nói:
-Tướng quân cũng không nhận ra những người nào đấy à? Thế thì bắt lỗi người ta không phải rồi. Cao Lỗ cười:
-Ai cũng tùm hụp khăn vuông kín mặt mũi tóc tai thế, biết ai với ai được! ạng quan cầm chăo đứng cạnh Cao Lỗ nói:
-Các cô nàng hầu công chúa đấy.
-à, các cô nàng hầu ra làm phường đấu. Phải rồi. Thảo nào mà trông quen. Mấy người bàn tán:
-Có hôm, công chúa cũng cùng ra đội đất với các cô nŕng. Cao Lỗ chau mày nghĩ, rồi hỏi:
-Có phải trong bọn các cô nàng vừa rồi có cái nhà cô Tàm thuở bé chạy giặc Tần phải vào ở với vượn trong rừng, học được giọng vượn, hát hay, rồi vua chủ kén vào cung phải không?
-Đấy, đấy. Phảng phất đâu đây tiếng hát cất lęn trong veo như nước ngọn suối,
-không lẫn với tiếng ai được. Phải như đă bao nhiêu năm ở rừng, rồi tiếng gió, tiếng ngọn nước, tiếng chim, tiếng vượn đă dọn giọng, luyện giọng cho cô Tàm được giọng hay từ khi chưa biết cất tiếng hát. Các cô nàng ra làm phường đấu đă vắt vẻo đi một dăy trở lại. Tảng đất mới xắn dưới chuôm lęn đặt tręn khăn vuông lót tàu lá cọ. Đằng ấy, từ lúc nãy đến giờ, đám các cô cũng vẫn chưa dứt câu chuyện gặp nửa sợ, nửa bâng khuâng.
-Lần này mới thật được giáp mặt đức ông.
-Mọi khi em đă trông thấy đức ông vŕo trong thành. Thế mà hôm nay các quan trần lưng ra kéo đất đă lẫn lộn với trai các cõi, em đâm quáng mắt không nhận ra.
-Sao đức ông cňn trẻ mà đã tài giỏi thế?
-Nghe hồi đức ông theo vua chủ đi dẹp quân Tần, người chưa được hai mươi tuổi.
-Giỏi quá.
-Hai mươi tuổi! Ai thương ai nhớ Khăn điều ai vắt vai ai Các cô đội đất đă trở lại qua trước mặt đám người đương kéo đá ong vŕo chân thành. Nhưng lần này các cô rón rén bước nhanh vùn vụt. Cao Lỗ buông tay chão, gọi với:
-Cô Tàm, cô Tàm ơi! Một cô nàng đứng lại, rụt rè bước ra, nhấc tảng đất trên lá cọ xuống rồi ngồi xụp, chắp tay, cúi mặt sát ngọn cỏ. Trong làn khăn vuông chàm vừa nghiêng, đôi mắt ánh ra như ánh mảnh sao vút sa xuống. Cao Lỗ cười:
-Gọi đůa cho biết ai là cô Tàm đấy thôi. Cô Tàm hát cho làng chạ nghe nào. Biết tướng quân Cao Lỗ vui giỡn, các cô ré chạy. Tàm lại đội tảng đất đứng lęn, đuổi theo kịp được bọn. Tiếng hát vờn xa gần, văng vẳng. Vừa lúc, đám kéo chăo đặt tảng đá ong đằng kia ngồi nghỉ tay. Có những người cňn đứng nhěn các cô thoăn thoắt chạy qua. Một anh chŕng cúi xuống, cầm bát nước lên uống. Con mắt vẫn ngước theo:
-Người trong thành kể chuyện cái cô Tàm này vào làm nàng hầu từ khi công chúa còn ẵm ngửa.
-Chuyện đời cô Tŕm người ta đồn lạ lắm, phải không?
-ờ, thuở bé, cả nhà gặp nạn giặc Tần, cô ấy phải vào rừng ở với vượn. Một người chép miệng:
-Rồi đến tuổi con gái, lại đi lŕm nàng hầu cấm cung. Thì cũng lạnh lẽo âm thầm chẳng khác ở rừng.
-Không được ví von xŕm thế! Im lặng. Một người hỏi:
-Bao nhiêu năm làm nàng hầu rồi?
-Lâu lắm. Không biết. Nhưng đời cô Tŕm, ai cũng biết và mỗi người lại kể thành những câu chuyện lâm ly, buồn thảm, lạ lùng khác nhau. Một người thở dài:
-Phải là người đẹp thế nào thì mới có giọng hát bền đến thế được, hát hay đến chẳng biết tuổi nŕo nữa. Rồi mặt trời lại chói lói gác xuống dãy núi Ba Vì xanh thẫm lơ lửng bên kia sông. Trên từng quãng bãi phía này, trong những túp lều dựng mỗi chòm thành một làng chạ nho nhỏ, khói bếp chiều tỏa là là lẫn với sương mù trắng mờ dăng ngang vào tận chân núi. Vẫn còn thấy người đi vơ vẩn nhặt một đống cuội về lŕm hòn dọi xe sợi, làm mũi thuổng. Suốt ngày, các lão bà ở lều đan thúng mủng, nong nia, rổ rá...
Có chạ đi kiếm quặng đồng tręn sườn núi về đúc rěu làm dao, lưỡi cày, lưỡi câu. Lại nhóm lò làm cả khuôn âu, những bình, thạp, lồng ấp. ít lâu nữa, xong việc xây thành vua chủ, quảy cả những thứ ấy về. Ngoài cửa sông, đất sét tốt, người ta đẽo bŕn xoay, nặn nồi, vại. Hạt na, hạt trám vứt ra đă mọc thành cây. Những dây rợ cho quả ăn sớm, đă có giàn gấc đỏ gay. Đi kiếm cá về lấy lá cọ trát bůn túm lại, ninh trám. Chập tối, trẻ con hay khóc đęm đă hờn vòi bú. Tiếng người gọi lợn. Tiếng bê nghé í ọ. Tiếng dê láu táu be be. Tiếng chó sủa nhũng nhẵng. Xung quanh chân thành, người các nơi về làm đã ở ra chòm xóm, mỗi ngày một đông hơn, khắp các bãi, dọc sông. Các cụ già thường bàn nhau: đồng bãi quãng ngã ba sông này, chỉ ném hạt xuống cũng được ăn quả. Có khi rồi về đưa cả lŕng đến ở bờ thŕnh đây cũng nęn... Hôm sau, ngoài bờ sông vào chân thành, từ tờ mờ sáng, mỗi chốc một tấp nập. Những lão ông bện chão. Cái chão vóc to bằng cánh tay, xâu tảng đá ong đưa lęn rồi thả xuống, giữa những tiếng reo sôi nổi. Những ụ đất cao dần. Đám các cô gái thong dong đội đất, vừa đi vừa hát. Khói tỏa tręn đống rơm đốt giữa băi
-khói trẻ con hun chuột đồng, thui con cuốc, con rắn. Bao nhięu nhộn nhịp, rộn ràng soi bóng bên dòng sông, những hôm quang trời, làn nước đỏ nguồn lên. Con chim bói cá vẫn kiên nhẫn vẫy cánh đứng yên trên khoảng không, bất chợt bổ xuống giữa xoáy nước. Đàn rùa đương bơi bỗng dưng cất cổ, như muốn đớp con chim bói cá vừa sŕ xuống. Tiếng trống đồng thúc xa xa. Tręn sông nhô ra những chiếc thuyền dài, mũi cao, đuôi cong vểnh. Đầu thuyền, đứng bệ vệ một quan lạc thắt lưng điều. Đằng sau, một người cầm khúc gỗ tay lái đưa đẩy. Hai bęn mạn, hơn mười đôi tay chčo. Giữa khoang, cao gần chạm mui, bắc bốn gióng, trên đặt ngang cây mõ. Một quan lạc áo giáp da trâu, doạng chân, gõ nhịp cho hai bên hàng chèo. Thuyền bắt qua phải, bắt qua trái, người đứng chân giậm ván, "dô huầy huầy dô" rầm rập theo làn mõ. Mười hai thuyền quân nối nhau rẽ nước tiến ra. Đoŕn thuyền qua rồi tiếng trống đồng lại xa gần. Đến lúc tiếng trống dồn dập đưa dŕi như nổi sóng trên mặt nước, mới trông thấy mười mấy chiếc độc mộc mũi vuông điểm đôi trňng mắt đen hai bęn mạn nhô lên -đoàn thuyền vua chủ đã ra tới. Những chiếc thuyền độc mộc trường khoát bằng cả cây gỗ đại, quân quan ngồi dŕn hai bên. Người nào cũng vai trần, cánh tay đeo nỏ. Giữa mỗi khoang đặt chiếc trống đồng cao. Các quan lạc đứng thay phięn nhau gióng trống, từng tiếng trống hiệu trôi trên sông. Vua Thục cao lớn, cằm bạnh râu quai nón rậm kín nửa mặt. Vua mặc tấm áo chàm không dải, phanh ngực, hai ống tay xắn lên tận khuỷu. Lằn khăn chàm mới còn sạm màu óng ánh xanh lơ chít lẫn với mớ tóc dài. Vua Thục đứng đầu thuyền tựa vŕo một ngọn giáo đồng dựng ngược. Rồi đến thuyền sau, đủ mặt các quan hầu lạc tướng. ạng Nồi hầu ngồi một thuyền với các tướng Đinh Toán, Đinh Công Tuấn -hai ông quę trên rừng núi ngọn nước. Lại ba anh em Phạm Chung, Phạm Túc, Phạm Hòa người các cõi ngoài ngã ba sông Cái mới trúng hội võ, được chức quan lạc, cũng theo vua chủ ra xem thành. Rồi những thuyền kiệu nhất, siêu nhất chở vợ con vua nối theo. Hàng trăm tay chèo, mõ lệnh nghiêm một loạt. Sau cùng, thuyền quân thủy, thuyền nội, thuyền tuyển, mỗi thuyền lại một quan lạc đứng giữa đánh sęnh giữ hiệu nhịp chèo. Suốt dải nước dọc dài đoàn thuyền vua. Tiếng mõ, tiếng sênh, tiếng trống đồng nhộn nhịp vui mà cực uy nghiêm. Vua Thục vẫn trầm ngâm nhìn lên bờ sông. Dãy tường thành lấp lánh ánh nắng nổi màu xanh lục in lên nền trời cùng với những nét lố nhố đoŕn người kéo đất lởm nhởm cao dần -dường như từng lúc trông đă khác. Vòng thành quanh co. Có chỗ gãy khúc rồi quặt lại, nhòm xuống hào nước luồn quanh đương tới tấp bơi một dãy dài đoàn thuyền chiến độc mộc vừa vút ra như mũi tên.
Tiếng hò la, tiếng hát, tiếng trống... Tiếng cái, tiếng con bắt nhịp. Xá rộng thuyền ra Chèo về bến Lú Là hời non xanh Là hời nước biếc Nước biếc chàm pha Là ta ra thuyền Tiếng con đã cất lanh lảnh: Nước biếc chàm pha Là ta ra thuyền Huầy dô huầy dô Huầy dô huầy dô Là huầy dô huậy... Vua Thục vẫn chăm chú nhěn ra. Hai tay ôm hàm râu. ánh mắt rực rỡ, sảng khoái. Đoàn thuyền ghé vào bến mấp mé đầu bãi. Quân quan nhấc cánh nỏ, xách giáo, bước lên. Những chiếc thuyền hiệu càng lún lên lún xuống trên mặt sóng, theo nhịp trống thúc. Tất cả các thuyền đă ghé hẳn vào bến. Tiếng trống im.
Vua Thục bước tới đám quân quan đương cůng Cao Lỗ hò hét kéo đất vào chân thành. Cả bọn dừng lại, quay ra, phủ phục xuống. Vua Thục nâng tay Cao Lỗ đứng lên.
-Tôi ra đây mừng cho ông, mừng cho ông. Có đứng dưới nước trông lęn mới thấy được thŕnh ta thật kỳ vĩ. Những đoŕn người xung quanh vẫn kéo đất, đội đất. Từng bóng người đi như cắt lęn mặt thành. Vua Thục nói:
-Mời ông xuống thuyền rồi ta cùng các ông Đô ngắm lên thành cho thật thỏa mắt, cho thấy hết được tŕi trí của ông. Cao Lỗ nói:
-Vua chủ quá khen, làm tôi nghĩ mà thẹn. Chỉ bởi cố ạng Trọng đã dạy, mới nên thành này. Rồi nhờ được người tám cõi cùng một bụng với oai vua, lại có quân quan không phân biệt ngôi thứ, giường chiếu, quan đầu triều cũng như quân dắt ngựa, đă cùng đổ mồ hôi. Thế thì việc khó đến đâu mŕ chả xong.
-Mời ông, ta xuống thuyền. Cao Lỗ xin được thay xống áo đă lấm đă.
Cao Lỗ lên khúc sông trên nhảy ùm xuống tắm. Rồi vào lều lấy đồ mặc mới. Một chốc, Cao Lỗ bước ra, mình cao chín thước, búi tóc ngược, diện mạo cương nghị. Tấm áo chồi điều buộc dải gió bay lồng lộng. Đám các cô nŕng hầu lúc ấy đă nghỉ tay, đương tắm ngoŕi bãi cát phía cuối mom. Các cô nàng trằm mình xuống nước, váy quấn mở trên đỉnh đầu. Ai cũng lŕm như mải tắm táp, nhưng dường như ai cũng chao mắt nhìn tướng quân Cao Lỗ đương oai nghiêm bước xuống thuyền ngự. Cô nàng đã tắm xong, thong thả lội vào bờ. Nước ngập rút xuống vai, váy trên đầu rũ xuống vai, rồi người lội nhô lên ngang ngực, váy tỏa xuống ngang ngực. Thong thả, Tàm đưa mắt về phía thuyền vua chủ, Tàm thẫn thờ, trầm ngâm. Tất cả các thuyền đương làm cỗ linh đình ngay trên sông. Thuyền quân, thuyền quan chia thứ bậc, những tảng thịt lợn thịt trâu thui được vác xuống từng thuyền một. ở thuyền giữa, một mình Cao Lỗ được ngồi với vua chủ. ạng Đô Nồi vŕ các quan đậu thuyền sát cạnh cũng đương rậm rịch ngả ván, ngả phęn xả thịt quây quanh. Vua Thục lại ngắm lên tường thành. Không biết đã bao nhiêu lần. Rồi vuốt hàm râu, cười ha hả.
-Có được thŕnh vững rồi, từ nay mới có giấc ngủ ngon. Cao Lỗ lặng lẽ nói:
-Tôi trộm nghĩ chưa hết lo được.
-ạng bảo còn phải lo gì? Cao Lỗ nói:
-Tôi nghe người qua lại đất Triệu nói uý Đŕ đă lấy được Tượng Quận, Quế Lâm rồi, có khi cňn đỏ mắt thčm bờ cõi ta. Vua Thục cả cười:
-Voi ta sẽ xông ra xéo chết chúng nó. ạng cứ trông lại thành của ta kia làm sao mà không vững tâm như bàn thạch. Vua Tần có sống lại, Đồ Thư có sống lại, cũng đến phải chết lần nữa thôi. Kể chi bọn giun dế úy Đŕ phải đợi lúc nhŕ Tần tiêu vong mới dám mon men cướp vài vùng biên cảnh, thì đáng gờm gì! Kìa kìa, voi chiến ngựa chiến ta tiến ra cửa tây. Kìa kìa, quân thuỷ ta xếp nỏ xuống thuyền chở từ sông Thiếp, sông Lú ra dàn trận ngoài sông Cái. Ta đương cho gọi người Cửu Chân ở đường bể lęn đóng thuyền chiến chịu được sóng to... Giặc mŕ táo gan chỉ còn cách bỏ xác lại. ạng nghĩ thế nào? Cao Lỗ nói nho nhỏ:
-Thành ta vững chắc. Quân ta dũng liệt. Nhưng còn có kẻ ngoài phên giậu nhăm nhe, ta nằm chưa thể đẫy giấc. Vua ghé tai Cao Lỗ:
-ạng thật là người cao kiến. Những lời ông nói hệt mọi việc trời đă an bài. Ta ra với ông cũng vì việc này. ạng nghe đây. Vua Thục kể:
-Đęm trước, ta lại nằm mơ thấy ông già ngoài thành phía tây gọi bảo sáng mai ra gặp thần Rùa. Sớm ra thì thấy thần Rùa đang bơi từ phía đông sông Cái vŕo. Thần Rùa hỏi: xây được thành rồi, vua chủ có bao nhiêu voi, bao nhiêu nỏ để giữ thành? Ta đáp: Có một nghìn voi, có một vạn nỏ. Thần Rùa nói: Triệu Đà ở Phiên Ngung có triệu quân, triệu cánh cung, vậy thì vạn nỏ, vạn tên đồng của vua chủ bắn ra chỉ đủ để rơi lót đường. Ta lại hỏi: Thế thě làm thế nào? Thần Rùa nói: Ta cho vua chủ chiếc móng rùa này làm lẫy nỏ. Một phát nỏ lẫy thần bắn một lúc mười mũi tên tan mười vạn giặc. Ta lại hỏi: Làm thế nào để chế được móng růa thành lẫy nỏ? Thần Rùa bước ra khỏi mặt nước, dặn ta: Cao Lỗ biết xây thành Loa, Cao Lỗ sẽ biết làm lẫy nỏ. Cứ hỏi Cao Lỗ. Ta tỉnh giấc. Vẫn thấy mình nằm trên giường. Nhưng trong tay cầm chiếc móng rùa. Ngắm nghía, quả nhiên thấy đúng chiếc móng thần Rùa vừa cho. Cao Lỗ cầm chiếc móng rùa vua Thục mới lấy ra từ trên ngực áo. Cao Lỗ nhìn ra mặt sông. Cao Lỗ lại giơ móng rùa ngắm nghía, lẩm bẩm như nói một mình.
-Móng rùa thần làm lẫy nỏ. Lẫy nỏ, lẫy nỏ thần, muôn người không địch nổi. Lẫy nỏ, lẫy nỏ... Muôn người không địch nổi... Các quan lạc ở thuyền bếp bên cạnh đã dọn sang mọi thức nhắm thịnh soạn. Thịt lợn bột thui, thịt trâu, cá anh vũ nướng. Trong hoàng hôn đầu bến, đoŕn thuyền ngự như một đám rước dập dềnh bęn mép nước. Những chiếc thuyền quân oai nghiêm chĩa nỏ bơi tuần quanh ngoài dòng. Trống đồng đánh hiệu thong thả buông vang mặt sóng. Vua Thục vŕ Cao Lỗ ngồi trước mâm cỗ ngoài sạp đầu thuyền. Cao Lỗ nói:
-Rõ thật được dịp. Hiện có phường đồng phường đá ở Hŕm Hoan theo lệ hằng năm vừa tới, cňn đương trú ở ngoŕi thành đợi lệnh vua chủ cho vào đúc trống. Người đất Hŕm Hoan làm đá, đúc trống, chế nỏ xưa nay đă lừng tiếng các cõi. Vua Thục hỏi to:
-Phường Hàm Hoan? Hay lắm.
Sớm hôm sau, vua Thục và Cao Lỗ cưỡi ngựa ra xem lại nơi đặt đắp lň đúc. Nơi ấy, một băi khuất dưới những vòm tre lẫn rừng trúc chân thành. Kín đáo đến cả những lŕng ở ven nội cũng không biết chỗ ấy có gì lạ hơn mọi khi. Lệ cũ đã thành từ đời trước, vua Hùng có lần đi dẹp giặc quấy nhiễu phía nam. Quân qua núi Khả Lao. Thần núi lên báo mộng, đưa cho vua cái trống cái dùi. Đến khi vào trận, quân địch cứ nghe văng vẳng tiếng trống đồng thúc sau lưng. Địch hốt hoảng, tan chạy. Quân ta thắng to. Vua về lập đền Đồng Cổ tạ ơn thần núi Khả Lao. Nước ta thŕnh tục đúc trống đồng từ đấy. Các đời vua về sau, cứ vŕo năm được můa lại gọi phường đồng Hŕm Hoan về đúc trống. Người ta chỉ biết thế. Bởi mỗi khi các bễ đă bắt đầu nhả khói, bŕn dân cả vùng quanh đấy không ai được văng lai nơi đặt bễ đặt lň phường đúc thięng liêng. Đứng trong bãi trông ra hay ở dưới thuyền nhìn lên, chỉ thấy ở đấy những rặng cây lụi mọc ven chân tre, vŕo mùa này, trổ những tàu lá đỏ hắt -lá lụi non cứ tía như lá bàng lúc sắp rụng. Trên bãi khuất ấy, lặng lẽ mà tấp nập.
Những cây gỗ bổ ngang, khoét ruột hình chiếc thúng. Nhiều cây gỗ kê liền nhau thành tấm phản. Bác phường cả đă già, hai gối quắp chặt mảnh ván. Tay cầm nạo sắt, tay gõ chày. ạng lão chăm chú sửa mặt bộ thân tên đồng. Nét đẽo lęn vạc tròn, vạc dài. Cây tên dựng đứng to cao hơn hai đầu người sừng sững như những chiếc cột đěnh. Trước mặt mỗi ông lão, đằng kia, một dãy ụ. Nóc lò, khói tỏa vân vân. Lò đúc tên thần vẫn còn mấy mẻ nữa. Giữa bãi cỏ, từng bọn người phường đá phường đồng mặt sạm đen ám mảy đồng đương chăm chú mọi công việc giữa đống đá tảng cao như mỏm núi. Người nŕo cũng búi ngược tóc, lực lưỡng cởi trần, xăm chŕm đầy vế tay, đầy ngực. Tay cầm rěu đồng rěu đá, ghč đá tạc bệ nỏ. Những tảng đá kẹp mảnh tre kín quanh, dỡ ra, mặt đá lęn nước bóng như tấm gương đồng. Một ông lăo kính cẩn cầm chiếc móng rùa vàng thẫm như ngà con voi trăm tuổi, soi nghiêng lên gương mặt đá, thong thả mài. Một đống trầm, những bó hương đen khói thơm nghi ngút lęn suốt ngày đêm. Tiếng đẽo đá chí chát. Tiếng mŕi rì rầm như nước chảy. Nhưng tất cả chìm lắng dưới bờ tre xanh mướt, lác đác viền những nhánh lá lụi đỏ hắt. Ngày đêm, Cao Lỗ ở luôn đấy với phường. Cùng làm mọi việc lò đúc, đẽo bệ, tỉa mũi tęn, mài lẫy. Không biết có đến mấy năm mới ngơi, cho phường thợ được dẹp đám về cői. Rồi nửa đęm kia, bộ nỏ thần được rước kín đáo âm thầm lęn mặt thành. Năm tháng qua. Ngoài sông, trong thành vẫn lặng lẽ như mọi khi. Trên mặt làn nước xoáy, con bói cá lượn tìm mồi trong bóng chiều vàng rực. Trong làng, quanh những bờ khuôn giếng đá, người lố nhố ra kéo nước về sửa soạn cơm tối. Mới hôm nào vào quãng này, mặt trời còn le lói, bây giờ ngày đã ngắn. Phía tây, chỉ còn ráng vàng sau lưng dãy núi Ba Vì lừng lững xanh rì.
IV
Các làng đã vào mùa hội săn. Những chân bãi ngập nước từ đầu làng trải ra, mới hôm nào còn loáng như mặt đầm, bây giờ đuôi lúa đă rập rờn thành làn rì rào gió thổi. Những đŕn chim chích, chim bạc má bay về, sà xuống ríu rít bắt sâu cắn lúa. Quanh nhà, sực nức mùi hoa chanh, hoa bưởi. Con chim nhẹ nhàng lẩn vào bóng hoa. Hạt mưa đầu mùa đêm qua còn đọng lại trên lá, bây giờ rơi lẫn xuống những cánh hoa chanh như vẩy trấu tim tím. Chim tu hú cất tiếng gióng giả. Vào đầu mùa còn râm mát, đâu cũng nhàn rỗi đợi gặt hái. Sáng sớm, các làng đổ đi săn. Tối lại về thui hươu nai, ăn uống rồi vui tập roi, tập vật. Đâu cũng một quang cảnh ấy. Dạo ấy, chỉ có hai anh em Đống và Vực mới về với mẹ ở nhà. Bố bận việc quân trong thành trên Kẻ Chủ. Đống đă xốc vác chẳng khác bố ngày trước. Vực thấp bé nhưng lẳn mình trắm. Ngày nào cũng đi sông nước như chạy nhảy trên bộ. Tinh mơ, Đống ra trước ngõ, tay cầm tù và. Đống giơ nghiêng ốc, đưa lęn miệng, thổi một hơi dài. Tiếng ốc rền xa. Lác đác, tiếng đáp lại. ấy lŕ các nơi đă biết hiệu cùng nhau sắm sửa ngày săn. Rồi anh em Đống vắt lęn vai bộ lưới săn chất cao hơn đầu. Tay xách lao, khoác nỏ, lưng giắt lủng lẳng đầy khít ống tęn. Mẹ ngồi dệt trước cửa. Cuốn cửi sợi tơ chuốt quấn vào lưng đã dày một ôm. Mẹ đứng dậy, ngừng tay ném thoi, cởi cuốn đặt xuống, bước ra xe thęm chỉ. Quả dọi đá kéo sợi tơ cŕng quay tít tròn. Mẹ nhìn Đống và Vực xăm xăm đi, nói theo:
-Nghe hươu về kêu ở rừng trám đęm qua nhiều đấy.
Các đầu ngő đă lố nhố người ra, tay lăm lăm ngọn giáo. Hai người khięng bộ lưới săn hổ săn gấu to như chăo. Mỗi lúc càng đông. Cả nhà cả xóm đi phường săn. Người tụ lại một đám, ngóng về phía rừng báng bờ sông Lú đợi hiệu cồng. Ngoài bãi cửa rừng, một đám trẻ lơ láo nhìn theo người chạy đi chăng lưới bắt hươu. Đống bước qua, nói to:
-Không đi chia phần thịt hươu với phường săn a? ở nhŕ làm gì? Tiếng lao xao nói:
-Đęm qua có sấm mới, cuốc ra nhiều lắm. Đống vŕ Vực nhớ đương můa bẫy cuốc. Mới năm trước, můa này, hai anh em với các bạn lứa tuổi còn mê mải làm bẫy cuốc. Cành lá móc diều sum suê cắm đầu bãi cỏ. Sáng sớm, chập tối, khói bếp trong xóm lan ra, bay là là như sương. Mỗi tàu lá một đứa ngồi núp dưới, bắt chước tiếng cuốc gọi nhau: quắc... quắc... Những con cuốc đen đốm trắng béo mượt mŕ chui vào chỗ cành móc diều có tiếng "quắc quắc". Người núp sau tàu lá chỉ việc giơ tay nắm từng con vừa bay nhảo tới. Bây giờ Đống và Vực chê bắt cuốc là trò chơi trẻ con rồi. Đến lúc phường săn đă vào hết trong rừng. Làng vắng ngắt. Chỉ còn mấy em bé gái tha thẩn ra bờ bãi nhặt cua, bắt nhái. Trong nhà, các bà già dệt cửi đánh chỉ. Những con dọi đá quay ra tận đầu ngő, chỗ đám trẻ đương xúm xít vặt lông, thui cuốc. Khói um lęn cây bưởi. Đŕn chim bạc má vừa bay vào, lại hốt hoảng nhún chân lao đi. Hoa bưởi rụng lốm đốm trắng mặt cỏ. Đám trẻ ăn thịt cuốc rồi hết cách chơi. Thế lŕ cùng nhau ùa vào rừng theo phường săn. Những đŕn chó săn con đen, con vện, cung cúc chạy, rúc đánh hơi từng bụi těm vết hươu. Tiếng chó sủa lắc rắc, nhúc nhắc. Phía nào cũng nghe, mỗi lúc càng xa. Rồi bỗng nhiên các góc rừng nổi tiếng cồng. Tiếng cồng như âm u từ trong lòng đất. Thoạt nghe tiếng đục lờ tận đâu rồi cứ vang dần. Đến lúc đầu rừng nŕo cũng nổi cồng, giục giã, dồn thúc. Mọi người vác lưới à à chạy tỏa ra. Người cầm giáo xỉa tới tấp vào các lùm cỏ. Mỗi cánh lưới chăng dài căng qua một phía. Mấy chục người, cách quãng lại kéo một mảng quây tròn vây một vùng rừng.
Tiếng cồng đuổi các con thú trong rừng hoảng chạy. Những mảnh lưới, những ngọn giáo, những tay nỏ chỗ nào cũng nhấp nhô, lủa tủa. Tiếng chó sủa dẫn người vào mãi trong rừng rậm. Rừng báng, rừng trám xanh cuồn cuộn, đương loạn tiếng tù và, tiếng người hú, tiếng cồng, tiếng chó sủa. Như cả một dải bờ sông bên này các làng đã vào phường săn. Những tiếng khua khoắng hò la cứ dồn dần ra bờ sông. Người lưới, người xách giáo bủa thành vòng vây áp ra tới mép nước. Chốc lại thấy một con nai hoảng hốt, lõm bõm bơi qua sông. Một con hươu đã thoát sang được bờ cát bên kia. Hươu đứng ngơ ngác nhìn lại. Rồi bỗng chạy bay biến vào bãi ngô lủa tủa cao ngập đầu người. Các đám phường săn lấm như vůi từ các cánh rừng đă trở về. Người nào cũng mồ hôi ròng ròng thấm ướt khố như lội dưới sông lên. Đòn ống trĩu trên vai người trước, người sau. Những con nai bị trói chổng bốn vó. Có con to, phải bốn cái đňn lồng vào khiêng mới xuể. Những con chó săn lúc nãy hăng hái nhảy xuống nước. Con vện, con đen ướt lướt thướt. Từ sáng, đă mệt, mõm lê xuống đất, đụng cả vŕo chân người. Xúm xít người xuống chọc tiết nai dưới bờ sông. Trước cửa nhà Đống, mấy con nai được khięng lên, lẳng xuống đấy, đợi thui. Đến tối, cŕng nhộn nhịp. Đám các cô giă gạo đứng chŕy đôi. Những cối giă gạo đęm cốt lấy nhịp chơi. Chày khua vào vách gỗ, vang tiếng cung kênh, cung kênh rộn rã. Tiếng chày vóng lên như tiếng chiêng đúm đánh đôi. Tiếng chŕy lóng đôi vui tai. Bọn trai lŕng đương giội nước lŕm lông nốt con hươu, cũng phải cất lời "hầy dô", như đám nhŕ chài đương đẩy mảng tręn sông Cái. Các lão bà nhai trầu phóm phém vào bắc bếp đồ xôi. Cuối bãi, đám thui nai đă lên lửa. Các cụ phường thui vốn khéo có tiếng thui trâu đánh giặc từ hồi chạy Tần. Các lão ông vẫn rắn rỏi quắc thước lắm. ạng lão cầm chiếc mo nang, phảy vào nạm than rơm hồng rực.
-Nhẹ tay thôi, không thì cháy hết da. Cái giống nai, bì mềm như da gà. Quá lửa, khét ngay. Lúc nãy, nghe xa có tiếng sấm rền, mấy ông lão ngước nhìn trời:
-Thong thả, cứ thong thả. Sấm mới như người ta sôi bụng. Tối nay rằm, có thịt nai chén, hội võ hội hát suốt đêm cũng được. Mọi việc cũng cứ sắp sẵn xong cả trước lúc trời tối. Mấy chiếc hũ đại đă được khięng đến. Cái chĩnh, những cần trúc, chiếc sừng trâu đong nước được bŕy ra. Vò nếp để các lão bà nhấm nháp ngồi xem vật, xem hát cũng đã được xách tới. Hôm nay có trăng sớm. Những con voi đă vác vào một đống củi. Rồi voi lầm lũi, hì hục vươn vòi khiêng nữa về. Xong việc, cả mấy con nằm phủ phục cạnh đống củi. Như đương xem đám người bộn rộn. Hay voi ngủ, không biết. Lũ trẻ cứ chạy rối lęn. Chẳng mải ăn bao nhięu, mà thích dọn dẹp. Để chúng được xem đấu roi, vő vật. Một lũ vừa ôm rơm đến cho đám thui. Bọn kia đă nhanh nhảu vác những cây roi vẫn gác dựng lên đằng đầu nhŕ. Mỗi roi, cả một cây tre đực dŕi, hun từng đốt, thẳng đuỗn. Vừa khuân vừa nghịch. Hai đứa gác chéo ngọn roi, chặn nhau, vào đấu. Tay nọ gạt tay kia, ngã cười choe choé. Vầng trăng đă nhô trên bãi ngô bên kia sông. Thoạt trông trăng, nhợt nhạt lướt thướt như vừa từ mặt nước chui lên. Rồi cứ trong óng dần. Đến lúc đă vằng vặc sáng vàng như chiếc chiêng đồng nhà trời. Đám ăn uống. Đám thi rượu cần. Đám gő lóng cất tiếng hát. Đám sắm sửa ra đấu roi. Chỗ nŕo cũng bóng trăng in ngần. Đống củi không phải lęn lửa nữa. Giữa bãi, hai tay Đống nắm cây roi, từ nãy đã gạt ngã được mấy người. Trong bóng trăng, bắp vai Đống nổi lên. Có người hạ ngang roi giữ thế. Cũng không chịu được lúc hai roi áp vào nhau, đành buông tay, kêu:
-Thôi! Thôi! Đúng con ông Đô Nồi! Xung quanh cười ầm. Lúc ấy, có mấy thớt voi lạ tiến vŕo lù lù như những cây rơm đội ánh trăng đi. Tiếng reo dậy lęn từ ngoài.
-ạng Đô đă về! ạng Đô đă về! ạng Đô Nồi không đợi voi cong vňi lên đỡ, đă nhảy thẳng trên lưng voi xuống. Những voi đi sau, đám quân quan theo ông Đô từ Kẻ Chủ về, lố nhố người thong thả xuống voi. ạng Đô Nồi nói to:
-Về gặp cái ăn tốt tươi thế nŕy là điềm lành trời cho rồi.
ạng Đô Nồi đến chắp tay vái chŕo các cụ đương ngất ngưởng với chiếc sừng trâu ao nước cầm trịch giữa mười chiếc ống trúc cắm tręn chĩnh rượu cần. Hai bên thi tài ngồi xếp bằng, năm trai năm gái. Mới nghe rằng Chẳng mấy khi mấy thuở Mấy bữa mấy ngày Chim bay lạc ngõ Gió bay lạc ngàn Có mái chim trĩ hoa đài tràn chân đến nhởi. Một cụ già nhất đám cung kính hai tay bưng đến trước mặt ông Đô Nồi một sừng rượu. Đống vŕ Vực đă bỏ bãi đấu, bước vào vái chào bố. ạng Đô Nồi nói:
-Có đi ra mới biết thiên hạ còn lắm thế roi nòi. Mỗi nơi lại có những miếng lạ. Roi người kẻ Ninh Hải khác roi trong Cửu Chân. ở Dương Tuyền lại khác nữa. Không phải chỉ nhất roi Chiêm Trạch sông Lú đâu. Mọi người xúm lại, nghe ông Đô Nồi chuyện, cứ trầm trồ:
-ồ là vậy! ồ là vậy! ạng Đô Nồi hào hứng:
-Lại nhiều tay nỏ giỏi lắm. Rồi kể:
-ạng Đô Lỗ vừa mới nghĩ ra được tęn mũi đồng có móc câu. Mỗi lňng máng nỏ lắp một dãy mười tên. Dây nỏ bện da trâu, không khoẻ không giương nổi. Một cánh bắn ra cả mười mũi.
-Ghê thật! Ghê thật!
-Các lò vật người ta cũng nổi lắm. Miếng mói, miếng sườn khác lò ta. Lại còn móc chảo, vỉa lộn cối, miếng thần miếng biến không biết đằng nào trở tay. ạng Đô Nồi bảo Đống vŕ Vực:
-ở lò nhà, học được miếng các cụ truyền lại, tưởng đă là tận cùng lò võ. Kịp ngày cố ạng Trọng dạy cho miếng roi, miếng vật nòi, lại tưởng thế là hết các lò rồi. Bây giờ mới biết không phải vậy. Các cõi nước ta ở đâu có người, đấy có người tŕi, không biết thế nào là hết. Các con phải học như thế mới được. ạng Đô Nồi lại nói:
-Rồi mai kia lên Kẻ Chủ, nơi sáu quân tụ hội, ta phải ra sức. Cụ lão nhất đám hỏi:
-ạng Đô cho hai chú lęn ở hẳn Kẻ Chủ? ạng Đô Nồi nói to:
-Tất cả làng hai bên sông đều lên Kẻ Chủ. Tôi về đây là vì việc ấy. Mọi người nhao nhao:
-Thế nào? Thế nào? ạng Đô Nồi ngửa mặt, tu cạn sừng rượu, rồi chẹp chẹp miệng:
-Cái nếp này chưa ngấu, còn hơi sượng. Nấu rượu không vội được, mà việc gì cũng không vội được. Làng nước đã có tin về quân Triệu đương lăm le bờ cői ta chưa? Một người nói:
-Dẫu biết rồi, cũng không lật đật, ông vừa bảo thế mŕ. Mai hẵng lập phường săn vŕo rừng lấy thịt nai vui với Nồi hầu về chơi làng đã. Nhiều người cười ồ:
-Phải đấy, phải đấy. ạng lăo giơ tay, kêu:
-Ngày trước quân Tần phạm vào ta đã phải khốn đến thế, bọn Triệu giương mắt ra mà không biết gương tày liếp sao! ít hôm sau, người dọc sông Lú với người các nơi lũ lượt kéo về Kẻ Chủ. Cả voi, ngựa, trâu kéo xe quệt.
Mấy ngày liền, xe trâu đưa lên từng bồ tên nỏ, giáo mác, đinh ba. Người đâu đổ ra lắm thế, cơ man người. Không phải chỉ có người một vùng. Mà nghe tin quân Triệu dòm ngó, các nơi rầm rập về giữ Kẻ Chủ. Tường thành đá ong vàng rực uốn vòng tròn lớp trong lớp ngoài, xoáy cao lên. Người đi khuất rồi, lại gặp lại bóng trên bậc đá quanh co. Cứ cách sải tay, đến một bệ đá. Những cánh nỏ hun đă lên nước bồ hóng, một loạt nghiêng lỗ chỗ một khoảng trời. Lại thêm nỏ mới của ông Cao Lỗ, lòng máng nằm mười mũi tên sáng choé. Những toán quân đeo nỏ rầm rập lên. Đi lẫn vào quân quan, lũ lượt những người trong thành ngoài thành. Người quảy gông cỏ, người vác nước, người xách giáo. Người tất tả theo con ngựa chở trên lưng ống vầu đựng nước sóng sánh với bước vó cất. Người theo những thớt voi, những đŕn ngựa thồ nỏ, áo giáp da trâu, những ró gạo nếp... Voi ngựa từ các nơi xa về. Người lần lượt đóng cọc dựng lều, chăng dây chỗ tŕu ngựa, bãi voi rồi chia lên các ngả trên mặt thành. Người người chen chân mọi công việc bộn rộn. Những cây gạo vừa trổ hoa, khắp cành xù xì bỗng rực rỡ đỏ. Ngã năm đường vŕo chợ, người lấy nước sớm xúm quanh các khuôn đá bờ giếng thơi, đương thě thào ghé tai. Một người vác nước dựng cây vầu đứng nghỉ, tựa vào cổng thành. Người quảy gông cỏ dừng lại bên khuôn đá miệng giếng.
-Nghe nói quân Triệu đă vào đến Núi Trâu rồi, có phải vậy?
-ạ là vậy. Cũng nghe thế.
-Có gì quản ngại không?
-Giặc đến thě vua chủ cho ta đánh giặc. Chẳng có gě quản ngại cả. Rồi người quảy cỏ thong thả trèo lên mặt thành, mở hai cánh gông thả cỏ xuống cho ngựa ăn. Người vác nước xuống bậc đá, đi khuất vŕo trong phường. Phía phường người ở, có chợ. Người đội, người quảy, người vác, người đánh trâu, người đuổi voi tất tả về phía ấy. Vẫn như mọi ngŕy ở phường ra chợ. Chỉ khác cái, ngoài các cửa thành lũ lượt vào những đoàn người, những thớt voi, những toán ngựa, những xe quệt trâu kéo nặng kĩu kịt. Quân quan các cõi đã về giữ thành, chập tối còn tấp nập.
Người ra lấy nước ngoài giếng lại hỏi nhau:
-Có đáng quản ngại không?
-Nó cũng bằng nước lũ thôi. Quân Tần đấy, ta biết rồi.
-Là thế nào?
-Là dữ đến mấy thì rồi lũ cũng ra bể cả... Quân Triệu đương kéo đi đông đặc bęn kia sông. Chẳng phải chỉ có quân thám thính về báo mà cứ trông những đàn quạ, đàn cò vỡ tổ bay tán loạn từ phía trên về, cũng biết đương có đông người lắm xô đẩy xuống. Mặt nước vŕ các bờ tre, bờ rừng đă xao xác cả. Trên mặt thành, vua Thục oai nghiêm đứng xắn một bên ống tay áo. Tay kia rút dải khăn chŕm trên đầu quấn xuống làm thắt lưng. Tóc xõa liền với hàm râu quai nón. Vua Thục chống tay vào bậc đá nhìn ra. Ngày đêm, quân quan đã sắp đặt quanh thành. Vua chủ hội các tướng lại, chia bọn. Mỗi cánh trấn mỗi phía. Ba anh em Phạm Chung, cửa tây. Bố con Nồi hầu đi với tướng quân Cao Tứ. Các ông Đinh Toán, Đinh Công Tuấn sang mặt bắc, cůng với những tay nỏ người Đồng, người Dao, người Cật tręn ngược về. Những ống lệnh dựa vào tường thành. Đấy là những cây bương ngộ đã phơi nỏ, kín hai đầu vấu. Đốt bương tức hơi vỡ mắt, cái ống nỏ rền như sấm lệnh, lŕm lệnh. Cao Lỗ bước ra, tay xách chiếc chiêng đại. Các tay nỏ đă lên chi chít như một dải chông cắm mặt thành. Mỗi quãng, một quan lạc tướng đứng nghiêm chăm chắm chờ chiêng lệnh.
Trên thành cấm. Xung quanh thềm đá, khói trầm đen sẫm bốc nghi ngút. Giữa bệ, cỗ nỏ thần uy nghi như con voi to nhất đŕn phủ phục chầu ra. Lòng máng nỏ dài mười sải, vành tròn một ôm bằng cả khuôn mặt cái trống đại. Một hàng tên cột đồng to như những cây gỗ mỡ, sáng loáng, nhô đầu tręn cánh nỏ. Mỗi bên hai mươi quân nỏ cao lớn, cởi trần, quì một gối. Bốn mươi lực sĩ hai vế, dang tay kéo nỏ. Mỗi cánh nỏ dài bằng cây luồng ngộ, ghép mảng nửa ống một buộc ken thừng da trâu như chiếc cột vút đầu, nặng mà dẻo lạ lùng. Hai đầu cánh từ từ vít xuống. Đến lúc dây nỏ khớp được vŕo máng, cả tám mươi cánh tay lực sĩ kiệt sức, ngã cả ra. Một lúc sau, mới đứng dậy được. Mấy chục đô khác đă lại vào túc trực thay tay sẵn bên bệ đá. Vua Thục hỏi Cao Lỗ:
-ạng xem ta cho chiêng lệnh hạ nỏ đã vừa chưa? Cao Lỗ nhìn ra rồi nói:
-Đợi lúc quân Triệu bắt đầu lội, hẵng ra tay. Tiếng quân Triệu hň hét. Nghe ầm ầm chuyển động như cơn dông đến bęn kia sông. Cao Lỗ cung kính chắp tay:
-Vua chủ cho lệnh.
Vua Thục phất tay áo. Cao Lỗ quay ra, lên đứng trên mỏm đá đầu tường thŕnh, giơ cánh tay đánh một důi vào núm chiêng. Bốn góc thành nổi lên những tiếng chiêng lệnh nối theo. Vua Thục bước lên bậc đá, đặt tay vŕo lẫy nỏ. Những mũi tên xé gió bay ra, tiếng oàng lên như sét đánh liên tiếp. Nỏ bắn hết sức sầm nhiệt, náo động cả bốn phía mặt thŕnh. Trên thành cấm, mỗi toán lực sĩ kéo cánh nỏ kiệt sức ngã lăn ra, lập tức, các lực sĩ khác xô vào. Tiếng chiêng lệnh trong tay Cao Lỗ phát dồn dập, nhịp bắn liên tiếp hoa mắt như chớp giật. Lại những toán lực sĩ kéo cánh nỏ rão hết gân tay, bắp chân bị chuột rút co quắp lại. Toán ấy chưa dậy được, toán khác đă vào vực ra. Lại toán khác vội vã quì nghiêng một gối, vươn tay với cánh nỏ, bắp vế nổi cuồn cuộn. Chiêng thúc càng liên tiếp, dào dạt. Dây nỏ vừa khớp được vŕo lòng máng, những lực sĩ đã căng sức, đờ mắt, mặt tái mét, ngă ra. Chiêng lại thúc dồn. Không kịp lôi những người ngã nữa. Những toán khác nhảy ngay vào quì chen giữa những người vừa ngã ra, vươn tay kéo nỏ. Người vít cánh nỏ tới tấp, xung quanh ngổn ngang những người nằm thở. Mấy chục lực sĩ khác đă nhô vào... Người chồng đống lên nhau vào kéo cánh nỏ. Cũng lúc ấy, khắp các mặt thành, từng làn tên theo nhịp trống thúc, vun vút. Những lằn nỏ nối tiếp bắn ra, mờ mịt thành từng làn sương phủ khắp mặt sông. Bên kia sông, tiếng quân Triệu đương náo động như những trận mưa rŕo xô xuống đằng ấy. Bỗng nhięn, lặng không -như đám mây lặng lẽ tan. Suốt tận chân trời đục mờ, chỉ cňn thấy những cánh bãi xơ xác cỏ lau. Đôi chỗ, nhô ra những cây gạo hoa đỏ giơ cŕnh lõa lợi như máu. Hai con ngựa lạc lõng giữa sương mù. Hai con ngựa cất vó loạng quạng. Cả hai người cưỡi ngựa phóng chạy chết. Không trông thấy nhau. Không nhận ra nhau. Đến một quãng trống trước mặt, giật mình ngỡ tới bờ sông. Hai người nhảy xuống ngựa, quờ tay ra lần tìm đường.
-Trời cao đất dŕy ơi! Trời cao đất dŕy ơi!
-Ai đấy?
-Im im. Có tiếng ngựa đương đuổi theo?
-Đây đă qua Vũ Ninh rồi.
-Nhưng cũng chưa phải chỗ đứng lại được. Hai người như hai chiếc bóng nửa mờ nửa tỏ trong khoảng không. Ngơ ngác. Nghe. Chờn vờn. Rờ rẫm. Một lúc thật lâu. Bốn phía rùng rợn lặng im.
-Có nhớ các quan ở Phiên Ngung ta còn bao nhiêu quân. Kho binh lương trữ được thế nào? Thục Phán! Thục Phán! Nửa năm nữa, nửa năm nữa thôi, tao quyết lại hỏi tội mŕy. Đŕn ngựa lại chạy. Vùng chân trời xám thẫm đùn đùn ập lại. Các làng bên này sông đã nhìn ra đấy không phải cơn mưa đůn lên mà là đám ngựa đen kịt. Những con ngựa sống sót đă chồn rục gối mà chưa qua cơn sợ. Không biết đương cất nước chạy hay chân đă khập khiễng. Cứ xốc lên rồi lại chúi xuống. Đàn ngựa cuồng chân, chùn chân, người cũng không thúc lên được, cứ luống cuống quanh quẩn. Bụi đất đỏ cŕng lầm lên. Mãi đến lúc đŕn ngựa chui ra khỏi đám bụi mů mịt người ta mới trông thật rõ thấy những con ngựa tan đàn ở đâu, chạy lạc tới. Rồi đŕn ngựa ấy cuốn cả vào vòm trời tối đen. Không một đốm lửa, không thể nhận ra được đâu lŕ bãi ngô, nương dâu, dòng sông. Ngôi sao hôm lóng lánh trên bóng đêm âm u phẳng lặng. Chỉ có ở dưới sông trông lên mới thấy nhấp nhô bóng ngựa loạng choạng tới.
-Dừng lại đây, dừng lại.
-Không còn đường nào đi được. Sông chắn mất lối rồi.
-Thôi, thôi.
-Cấm lửa.
-Đứa nŕo đốt lửa, chém ngay. Giữa lúc ấy, trong vůng trời mù mịt, bốc xanh lè suốt một dải cả nghìn vạn đuốc đóm đằng kia chập chờn, vůn vụt đến. Gě thế kia? Người đuổi! Người đuổi! Quân Thục đuổi ta kia! Từng đám người ngựa rú lęn, ngã vật. Những đốm sáng xanh miên man ào đến, xanh lạnh rợn qua trên mặt, trên đầu.
-Đom đóm! Đom đóm! Vô vŕn con đom đóm đang bay qua, như đuổi người. Tiếng hoŕn hồn kêu lên:
-Đom đóm, đom đóm!
Nhưng có người vẫn nhắm mắt, la thất thanh.
-Trời ơi! Chết mất! Chết mất! Lát sau, cả trận đom đóm sáng xanh lại lặn vŕo bóng tối.
Rồi, chỉ một lúc, đám người ngựa lử lả tręn bờ sông đă lặng như không. Vừa còn nghe tiếng móng ngựa gãi muỗi cột cột, bỗng chốc đã im hẳn. Mùi hôi người hôi ngựa bốc lên nặng nề. Như cả đàn voi, đàn trâu quây lại ngủ giữa rừng. Trên mặt sông, chợt nghe tiếng nước rả rích lạ tai. Không phải tiếng vỗ bờ. Mà nước mạn thuyền óc ách, cứ soàn soạt một dải dài. Nhiều thuyền đương từ phía bờ bên trổ ra. Từng toán người rời thuyền, từ mép nước đi lên. Lần lần về phía mùi nồng nặc mồ hôi. Tiếng ngáy rền rền. Lúc rống. Lúc nức nở. Những tiếng quát như giựt bóng tối lên. Những phát tên mũi đồng vút đi, sáng loè, như cả trăm ngôi sao đổi ngôi xięn ra một lúc. Trước mặt, vỡ tan tiếng ngựa hí, người rống. Tiếng òng ọc máu phun. Tiếng gào khóc. Tiếng hét. Tiếng vó ngựa đập, ngựa vừa chạy vừa hộc ra những tiếng rùng rợn trong trời tối thui. Không biết cứ thế chạy đi đâu suốt đęm, hay đến chỗ nŕo. Người ngựa quân Triệu rụi xuống từng đám.
V
Lại bắt đầu vŕo mùa nắng. Cuối những bãi lúa chiêm mơn mởn kia không thấy một bóng mây mà tiếng sấm cứ ùng ục rền đi. Nhưng không phải tiếng sấm mưa rào. Đây là những cơn sấm mới, sấm khan. Sấm dậy cho những măng trúc măng luồng, măng nứa nghe tiếng, tẽ đất mọc lęn. Trong các xóm, những cây bưởi, cây chanh, như mọi năm, hoa trắng, hoa tím ngẩn ngơ chúm chím cạnh những cây na, hoa vŕ lá cùng xanh rờn lẫn vào nhau. Từng đàn bạc má, chim chích bay vào trong cây, cánh hoa rơi như bướm bay. Đêm đến, hươu về đầu nhŕ ăn quả trám non rụng. Sáng ngŕy ra, từ quanh làng đến cửa rừng, những tay tre, tay trúc xanh ngắt trổ lủa tủa đan lęn trời. Lại đến můa các phường săn. Tiếng tů và gióng giả ngoài bến. Nhưng không phải tù và phường săn gọi người. Đấy lŕ tù và báo hiệu mảng chở đồng đă về tới. Mùa cày cấy xong, đâu cũng tấp nấp vào rừng ngả gỗ làm máng nỏ, lấy hóp về vót tên -đã chặt hóp ngâm bùn từ mùa rét năm trước. Hầu như thành nghề, các vùng trên ngược thạo đi rừng đẽo máng nỏ, cánh nỏ, vặn thừng da trâu dây nỏ. Các lŕng ở Vũ Ninh, Mi Linh cho vào đến Hàm Hoan đều đŕo lò đúc mũi tên đồng, rèn giáo, đinh ba. Các ông Đô Lỗ, Đô Nồi, các ông họ Phạm, họ Đinh, các quan lạc lại cấp tốc đi các nơi truyền bảo mọi cung cách, kích thước làm nỏ, đúc đồng. Tiếng đồn năm ấy vua chủ đi rót lň đồng các lŕng dọc sông Thiếp ra sông Lú. Mặt nước chỗ nào cũng ve vé thuyền mảng.
Những chiếc bè ghép cây vầu ngộ dày tới mười lớp chở đồng quặng từ các cõi ở vùng Tụ trên thượng nguồn sông con về. Mảng nặng mấp mé chỉ còn nửa ống. Người đẩy sào, chân chạy ngập lấp xấp trên nước. Các cụ xúng xính áo nâu da bò dày kệp, chít khăn chàm tai chó. Mảng vừa ghé bến, tiếng tù và liên hồi rúc. Đàn voi trong làng ra, quì chân, nằm đợi bęn mép nước. Từng thỏi xù xì xanh xám đựng vào thùng vào sọt đầy có ngọn rồi xếp từng lượt lên lưng voi. Voi đưa đồng vŕo đổ xuống trước cửa, xong lại thủng thỉnh trở ra. Các bến sông rộn rịch suốt ngŕy. Nhưng mà phường săn trong làng vẫn nhớ mùa. Tiếng cồng, tiếng tù và, tiếng chó sủa nhộn nhạo trong rừng. Chiều đến, đồng đă được lấy lęn, các mảng dềnh cao lênh đênh ngoài bến, cũng là lúc bọn phường săn trở về. Cả làng càng bận bịu. Cũng khác mọi khi, trẻ bỏ chơi cắm cành móc diều bẫy cuốc. Đám trẻ trong rừng ra, khiêng con nai to như đàn kiến tha cái mồi kềnh càng. Các xóm vui suốt đêm. Từ chập tối, lửa thui nai đã rừng rực. Khi trăng lên, nghe râm ran tiếng hò hát chèo thuyền trên cạn dưới nước, tiếng ngọn roi đấu nhau giữ miếng chan chát, tiếng chân giậm, người ngã huỵch giữa gióng vật như cây chuối đổ và những trận cười rộ lên. Các cô giã gạo lóng đôi hát đối đă bỏ cối bước ra cất tiếng hát chuyển giọng chèo thuyền bắt lời với các chàng trai mới đến.
Bái hồ là huậy Huầy dô huầy dô Trong vườn hoa mận hoa mơ Cùng hoa chiêng chiếng ớ hơ tốt lành Trong vườn hoa bưởi hoa chanh Cùng hoa thiên lý quấn quanh cổ nàng ớ hơ...
ở đâu, người giŕ cũng chăm chú mọi việc tỉ mỉ. Thui con nai cho khéo, da vừa chín giňn mà không nứt lại phải đến các cụ. Đŕo lò rồi đắp nền, cũng không qua được tay các cụ. Những đống đất thó trắng đă được nhŕo lại, thấu lại thành tảng mịn như mỡ gấu, lấy ra từng cục như nắm tay, miết thật thục, thật đanh. Từ trong hố đất dần dần đắp lęn thành vành lò tròn như miệng giếng thơi, cao một đầu một với. Lň đúc chięng, đúc trống cňn cao hơn, phải đẽo tre lŕm thang mới leo được lęn nóc. Rồi suốt cả tháng, mọi người mải đắp vỉ khuôn mũi tęn, ấn những đường đổ đồng chi chít như vết mỏ khoét, vết chân chim. Đôi khuôn ập một, phơi hŕng loạt ngoài bãi, cùng ống rót, quả dọi, gáo múc cốt -tất cả đều đất luyện. Đồng hun đến được nước, chỉ có đất thó mới chịu được lửa. Mŕ cũng chỉ cái đất cửa sông Thiếp ra sông Cái mới thật chịu đựng nổi sức lửa nung nấu dŕi ngày như thế. Trời bấy giờ còn mát. Buổi chiều chợt thoảng cơn mưa rào nhẹ.
Những trận mưa mới, như mưa thử, mưa qua, mưa có chân đi. Tiếng rŕo rào ngoài bến vào trên nóc nhà sang búi cây trám, bụi tre rồi xuống rừng, lên đến núi bên kia thì tạnh. Cũng có hôm còn hơi lạnh trở lại. Cả ngày, đám người quanh lò cứ cởi trần trùng trục. Từ sáng sớm, tiếng chiêng chòm đã lên hiệu nhóm lò. Mọi lò trong làng được châm một lượt theo hiệu tù và. Những cụ cao tuổi, cởi trần, thắt lưng chàm bỏ giọt, vung đuốc như múa, chạy từ ngoài bến vào châm lửa. Những đám cỏ tế lŕm bùi nhùi bén gỗ đã bắt lửa. Các nóc bốc khói mù mịt rồi xanh thẫm. Lửa lên đẹp. Thế là cả ngày, phường săn lại vào rừng. Rồi cuộc chè chén la đà quanh các lò đến khuya. Những lò đúc đượm lửa suốt ngŕy đęm. Ba hôm, khói dứt lên mái, từ đây tới hôm được nước, toŕn đun một giống gỗ nghiến mọc khe đá cho chắc lửa -từng đŕn voi vào các chân núi kéo về nguyên cả cây nghiến đã được ngả từ năm trước. Cứ trông mŕu khói phân vân trên nóc lò mỗi hôm thay đổi, biết lửa tốt, lửa kém mà ngày ngày mổ nai, chọc tiết gấu, đánh cồng, vui hát. Lửa lęn đỏ sẫm. Rồi đỏ tím. Đến hôm ngọn khói trắng nhạt, đồng đă chảy, còn sót lại bao nhiêu cuội đá dính quặng đương chěm, chỉ có nước đồng nổi váng tręn mặt. Lại chất thêm củi, đẩy cả cây gỗ thúc vào. Nước đồng đă già. Phải giữ độ lửa cho nước đồng lúc nŕo cũng sánh nhũn ra như lụa vò. Khói chuyển da cam. Nước đồng đă được luyện đẹp. Suốt ngŕy, ném trầm cháy sực nức quanh lò. Rồi màu đỏ vàng khé sang vàng nhạt. Rồi mặt lò ngùn ngụt khói trắng bông. Mặt lò trắng bông! Đồng đă được nước. Lň đă đượm lửa một tuần trăng đều đều. Mặt lň khói trắng bông rồi. Trong làng im phăng phắc. Theo cái hèm vẫn kiêng xưa nay, các phường săn không mó đến lưới. Trẻ con không ra cửa rừng bẫy cuốc. Không đâu đụng đũa, chơi nhởn. Đâu cũng đợi đến lúc hệ trọng thiêng liêng rót đồng. Vua Thục trên Kẻ Chủ về. Trước tiên ra lò đúc đặt giữa nhŕ Nồi hầu ngoài Chiêm Trạch. Đoàn thuyền vua chủ tới bến đầu làng sớm tinh mơ.
Tiếng cồng hai bên sông nổi nhịp từ lúc thuyền còn đương ngoài dòng. Cho đến khi trời sáng, trông ra dọc sông thấy chi chít đoŕn thuyền ngự đă vào quá ngoài bến mà vẫn chưa trông thấy chiếc sau cùng. Những chiếc độc mộc năm mươi tay chčo, những chiếc thuyền hoa kiệu nhất, siêu nhất ngổn ngang rực rỡ mặt nước. Rồi tiếng phách nhịp cho thuyền đậu, tiếng mő canh lướt lên lướt xuống. Người đổ ra xem thuyền vua nghìn nghịt hai bên sông.
Bạn chèo gióng giả Chèo chơi bạn nàng Huầy dô huầy dô Bái hồ là huậy Là hỡi lên dô Bái hồ là huậy Là huầy dô huậy Chèo chơi một mái cò bay Hỡi bạn nàng hỡi dang tay cho đều
Tưởng như suốt quãng sông Lú ra đến sông Cái, nơi nào cũng nổi tiếng reo, tiếng "dô huậy" hòa trong tiếng cồng nhịp nhịp. Vua Thục cởi dải hai vạt áo chồi đỏ, hàm râu quai nón quết tua tủa trước ngực trần. Các lão ông ra đón vua tận ngoài bến. Nồi hầu đă đi việc quân, về xem các lň đúc dưới Ninh Hải. Bŕ Đô cůng các lão bà ra đứng đón vua chủ. Đống vŕ Vực cao lớn giữa đám trai lŕng. Mỗi chú mặc tấm áo giáp da trâu nhuộm cậy, đỏ tía mŕu mận. Về làng, các chú cũng như trai làng. Trên mặt lò, khói nhẹ nhẹ trắng, vân vân. Vua chủ nhìn lò đồng hồi lâu, rồi hỏi:
-Mẻ này thế nào?
-Đội ơn vua chủ, từ lúc vŕo lò, mưa thuận gió hòa. Vua Thục cười:
-Làm sao giữ được tiếng tên đồng Chiêm Trạch như các lò mọi năm. Một lão ông nói:
-Trong nghề đồng, khó nhất cái đổ khuôn tang, khuôn chân vŕ vào nước cuối rồi mà lúc làm nguội, soi lên vẫn bóng như gương, chục chiếc như một. Nghề đồng đất chúng tôi xưa nay vẫn vững, sánh tŕy tay nghề phường đúc Hŕm Hoan. Xin vua chủ yên tâm. Vua Thục cười ha hả:
-Bởi thế mà tôi về lò đúc nhà Nồi hầu rót mẻ đồng này để cầu cho tám cõi được như Chiêm Trạch. Vua Thục cầm chiếc gáo đất, múc vào lò. Nước đồng sóng sánh vàng rực đổ ra ống sáo các khuôn đă đặt sắp hŕng ngay ngắn trên giàn sạp đất trước mặt.
Rồi ném áo xuống phản, cũng để trần lưng như các cụ, vua Thục đổ khuôn với các cụ. Suốt buổi sáng, rót hai mươi ống, được tręn trăm khuôn. Ngŕy đổ khuôn đầu tięn, cả vùng mới linh đình thành đám hội. Các lão bà phóm phém nhai trầu đứng thành đám ngoài đầu ngõ, hát nhịp cho các cô gái múa bài bông. Đến tận nửa đęm, mấy chục thuyền vua ngược dòng ra sông Thiếp rời bến từ lâu mà hai bên bờ, những đình liệu, đuốc đóm vẫn rực trời. Tiếng reo vang măi lên ngược. Các lò rót đồng xong. Mấy hôm sau, ngâm nước phá khuôn. Lại bắt đầu việc lŕm nguội. Từng đống mũi đồng cao như gň. Người già vẫn đóng vai phường cả, đốc đám trai gái lŕng ngồi chọn nhặt, cầm đá mŕi chuốt từng chiếc. Những mũi tên nổi bóng nhọn hoắt. Đám trẻ con lấy mảnh tre cật khía vào lòng mũi sạch hết đất giắt. Rồi lá chuối khô lau nhẵn trong ngoài lưu ly lên như nước. Sau cùng, các lão bà đếm, bó lại từng chục, mỗi chục chầu hai chiếc thành mười hai. Bó tên buộc dây mây chắc như đinh đóng cối. Tải lęn kho Kẻ Chủ, quăng quả thế nŕo cũng không xê xích được. Từng đŕn voi thồ mũi đồng lęn Kẻ Chủ. Trên bành voi, quản tượng ngồi trang nghiêm giữa những thúng mủng chồng chất các bó mũi. Ra đến ngoài đường, gặp khắp nơi đương như vŕo hội đem tęn mũi, tên đũa hóp đá, cánh nỏ, thân nỏ về các kho. Đoŕn thuyền, đŕn voi ngựa, xe quệt trâu kéo. Đâu cũng nô nức. Mŕ trời đất khéo thu xếp. Mọi nơi vừa dẹp các lň đúc, můa nắng oi nồng thật sự mới đến. Những cơn mưa nặng nề tới trước. Những trận mưa rŕo liên miên sầm sập, trắng xóa phương trời. Nghe phía nào cũng miên man tiếng mưa. Cả ngày đến chập tối, hết hôm sang mai, vòm trời rưng rưng đổ cơn nước mịt mùng. Dòng sông dềnh lên, ngập vào các bãi, các chân tre, những bụi chuối. Những chân lúa chiêm muộn đã ngập cả. Nước còn ngập ròng rã. Lại đến tao phải mò các vực, các chuôm ở cửa rừng bứt lúa ma về ăn. Một đŕn voi lướt thướt chui trong mưa vào xóm. ạng Đô Nồi và ông Đô Lỗ cùng về Chiêm Trạch. Có đến cả chục thớt voi lừng lững vào. Những toán quân quan chạy trước chạy sau rầm rập giữa làn mưa mù mịt. Mưa to thế, mà cả làng đã biết quan quân ta về. Người khắp xóm đội mưa kéo đến. Mấy cụ giŕ bước ra, túm lại hỏi:
-Các đức ông vẫn cňn đi giục các cői đem đồ đúc, đồ mộc về kho ŕ?
-Không phải. Các nơi xong tất rồi. Năm nay, cői nào cũng xong sớm, vào kho cả, đâu vào đấy.
-Thế hai ông đi đâu mŕ lặn lội nhường vậy? Cao Lỗ nói:
-Lên ngược nghe binh tình.
-Binh tình thế nào?
-ý chừng quân Triệu lại nhăm nhe đấy.
-ạ hay! Mọi người lặng yên. Người già không bao giờ quên họa quân Tần ngày trước. Và cả đứa trẻ ẵm ngửa cũng phải trải gian nan quân Triệu năm trước rồi. Những toán người tay cầm giáo, vai đeo cung kéo bộ qua, đi măi vẫn thấy giáo mác, cánh cung kéo bần bật. Suốt ngày, đâu cũng nghe rùng rợn tiếng đâm chém, tiếng thét hỏi:
-Tống được bao nhięu lương?
-Người trốn hết rồi, không lấy được hộc nŕo.
-Đứng lại.
-Chém đầu thằng kia lŕm răn.
-Đứa nŕo đi tống lương mŕ chưa đem về nộp quan đủ gạo, thịt, rượu, phải chết như thế. Khói đốt nhŕ bốc ngất trời.
Tiếng người gào khóc trong lửa. Các nhà chài lưới dưới sông, các làng, các bãi, lại dắt díu nhau chạy vào núi. Những đŕn trâu bồn lẫn với người đội người vác. Trốn vŕo rừng mà vẫn rùng mình nghe tiếng quát, tiếng rú đinh tai. Ai cũng đương nhớ lại. Nhưng ai cũng lại bừng bừng nhớ cảnh quân Triệu năm mới rồi, quân Triệu đă tan tác, chạy chết. Một cụ già vuốt râu, nói pha trò trống không:
-ừ mà cũng phải, ta tích trữ binh lương đầy các kho, nhiều quá thì cũng nên đem chia cho bọn úy Đŕ với. Rồi cười ha hả. Mọi người đương đăm chięu, bỗng cùng cười ran trong tiếng mưa ngoài trời đổ rào rào. Đám trẻ ríu rít đeo thời, đeo giỏ chạy đi nhặt cá rạch lęn bãi. Thoáng mắt, cả lũ đã khuất sau làn nước trời xối xả. ít hôm, chỉ còn gặt được khoảng chiêm ven bãi khỏi úng. Những nơi ngập nước, hạt thóc mọc mậm, rụng xuống, thành những chân rộc lúa ma. Lại vào giữa những ngày nắng to. Cả dãy tường thành vòng xoáy ốc hiển hiện lên trên bóng nước. Những cánh hoa súng nở trắng. Những chiếc lá trang tròn xanh lát mặt nước. Con cá quẫy đuôi đớp bóng lá. Chiếc hoa súng lung lay. Tręn cao, con bói cá ngỡ động mồi, thả cánh lŕ xuống. Sát mặt nước mới nhận được ra đấy chỉ lŕ chiếc hoa súng. Bói cá lại bay hất lên. Đàn rùa bơi thong thả. Bàn chân móng rùa toẽ ra như chiếc bê chèo đung đưa trong dải nước vŕng trời chiều. Bói cá lại tưởng con mồi lên ăn nổi, lao xuống. Lướt ngang mặt nước, bói cá choáng mắt vì bóng hoa gạo đỏ rực rỡ. Suýt con bói cá chúi vào miệng rùa đương hóng mồi. Trên bốn mặt thành, ở mỗi bậc đá có những cánh nỏ chĩa vào khoảng không. Những toán quân túc trực, mắt đăm đăm nhěn ra. Chốc, một ông lạc tướng bước nhanh vào đưa tin mới từ đường ngược về. Quanh thŕnh cấm, lại từng toán hàng trăm lực sĩ lục tục nhô lên. Mỗi người đóng khố điều, lưng để trần, đứng nghięm hai bên, đợi lượt vào vít cánh nỏ. Những toán khác đương lặng lẽ kéo vào. Đống trầm cao như cây rơm bốc khói thơm ngào ngạt. Vua Thục và Cao Lỗ đương đứng nhěn bàn cờ. Bàn cờ đặt trên tảng đá, bậc dưới cùng, ngay chân bệ nỏ thần. Chiếc chiêng đại dựa bên Cao Lỗ, như một vành khiên úp. Những nét mặt trầm ngâm. Những con mắt chăm chú nhìn quân cờ. Nhưng không phải thế. Dường như bàn cờ trước mặt chỉ để làm cái cớ gợi cho quân tướng những ý nghĩ đương bay vút sang phía trước mặt, bên kia sông. Cao Lỗ đứng dậy, xách chiêng lên. Cao Lỗ ngắm nghía lên vòm trời, rồi kính cẩn nói:
-Quân Triệu đă đến gần rồi.
-Chưa có người về báo mà ông biết được sao? Cao Lỗ chỉ tay lên những đàn quạ đương lả tả bay xuống:
-Vì quân Triệu trảy đông quá, lại động rừng tręn ngàn, chim mới vỡ tổ về nhiều thế kia. Trời vần vụ mây. Từng đàn cò trắng thấp thoáng ngang trên mặt thành. Cao Lỗ lại nói:
-Cò bay ra nhiều đến thế, quân Triệu đương men các bờ tre ven sông xuống quanh đây rồi. Vua Thục nói:
-ạng định trốn tôi ván cờ nŕy à? Cao Lỗ nói:
-Được nước cờ cao cũng lợi cho óc nghĩ về việc quân. Nhưng xin vua chủ cho đánh giặc xong đă. Vua Thục nói:
-Ta đă hẹn ông Đô Nồi đem các tướng Đống, tướng Vực đi xem xét binh těnh quân Triệu. Có tin ấy về mới là khẩn cấp. Các tướng trên ngược chưa về, bàn cờ kia cũng vẫn giúp cho ta minh mẫn nước nghĩ trận này mà. Cao Lỗ nói:
-Đứng đây cũng nhěn rõ bên kia sông rồi. Chẳng nên cố đợi tin Nồi hầu. ở trận mạc, xảy bất trắc là lẽ thường. Bụi đường đă mờ mịt khắp chân trời kia. Xin vua chủ cho tôi lên mặt thành. Vua Thục hỏi Cao Lỗ:
-Liệu lần này uý Đà có được bao nhiêu quân?
-Nó dốc hết người ra, quyết sống mái với ta một phen nữa. Vua Thục ôm hai tay lên hàm râu:
-Thế thì nỏ thần ta chỉ phải mất công khó nhọc có lần này nữa thôi. Đã có hai ông lạc tướng trên ụ canh, ông chưa phải đem lệnh lên, cứ thong thả. Hai hàng quan lạc tướng cầm chiêng, khoác khiên, chống giáo đứng im hai bęn. Mặt thành phẳng lặng. Trên ụ canh, sững bóng quan lạc tướng, mặt đăm đăm nhěn chân trời. Phút chốc, bên kia sông đã đen kịt. Như cơn bão nước ập tới. Cả một vùng sông và hào nước quanh thành, quân Triệu đương tíu tít thả thuyền, thả mảng luồng xuống nước. Bóng tỏa sẫm cả dòng sông. Cao Lỗ quay phắt ra:
-Giặc đến trước mặt ta rồi kěa. Vua Thục đặt một chân lęn bệ đá, nhěn xuống.
-ừ, bây giờ thì vừa hay. Rồi bảo Cao Lỗ:
-ạng lệnh cho các cánh nỏ.
Cao Lỗ bước ra mặt thành, vươn thẳng tay như treo chiêng lên, nện một dùi. Tiếng chiêng bốn phía đổ hồi theo. Vua Thục phất tay áo. Hai vế bốn mươi lực sĩ nhảy vào. Tám mươi cánh tay vươn lên. Cánh nỏ từ từ cong xuống. Suốt mặt thành, từng đợt tên nỏ bắn ra cờn lên, loang loáng, chằng chịt những làn sóng xám, sóng xanh, sóng vàng, chói lói ngang sông. Vua Thục đến cạnh bệ đá, phất tay lięn tiếp. Những mũi tên thần bay. Cánh nỏ vít xuống phăm phắp. Người kiệt sức ngã lăn. Những cánh tay, những đầu gối căng thẳng đến răo gân ra, không co duỗi được nữa. Người lăn lóc như những chiếc trống. Toán lực sĩ khác nhảy vŕo. Hiệu bắn càng gấp. Cánh nỏ chúc xuống, nhanh như chày giã gạo. Buông tay ra, lại không người nào dậy được. Toán lực sĩ khác lại ùa vào, giẫm lên nhau, gò dây nỏ vào máng. Tới tấp, hỗn độn người chạy, người ngã, người hô hét, người liệt gân lăn xuống. Chiến trận đằng đằng sát phạt ngay giữa mặt thŕnh. Từng làn nỏ khắp mặt thành bắn ra cùng với nỏ thần liền một dải kín như mây đùn từ mặt nước lên. Tiếng nỏ xé gió như sét đánh liên hồi. Một lúc. Tan khói. Những bãi cát ven sông lại lặng lẽ như mọi ngày. Cả một vệt dày đặc quân Triệu lúc nãy đã biến đâu mất. Chỉ thấy những hoa gạo rụng tới tấp, đỏ đọc như những vết máu chảy xuống rňng ròng. Vua Thục chỉ tay:
-Các ông trông kìa. Bên kia bờ nước, nhìn kỹ thấy mờ mờ ngổn ngang xác người, những cánh cung, những xe ngựa chồng đống. Nhưng cứ im như gò đống bãi tha ma. Từng đàn chim công lượn tròn trên dòng nước rồi lúng liếng, đỏng đảnh theo đuôi nhau đổ xuống bờ thŕnh. Cả trăm, cả nghěn con công đậu. Đuôi công mở ra, lung linh múa. Trňn xoe, rực rỡ biếc xanh, trắng bạch, vàng rực, đỏ hồng. Đuôi công xôn xao chụm lại, xoč ra, quay tròn, lộng lẫy ánh xuống mặt nước. Bên tường thành công múa hóa ra một cánh đồng hoa trà đỏ, hoa mơ trắng, hoa cà tím, vô vàn các thứ hoa kỳ lạ đương rực rỡ nở. Vua Thục cười ngất:
-Các ông trông! Trời sai đŕn công về múa mừng ta thắng trận. Bốn mặt thành, tiếng quân reo ầm vang. Vua Thục vỗ vai Cao Lỗ, lại nói:
-Nỏ thần ta mất công lần này nữa thôi. Quả như lời tôi mà. Cao Lỗ đứng lặng, nhěn sang sông, rồi nói:
-Phải cho người đi thám xem úy Đŕ sống hay chết. Vua Thục dõng dạc:
-Ta sẽ cho người đi ngay. Bây giờ ông hẵng lấy ngựa ra các cői báo tin thắng trận. Nội nhật trong ba ngày, kéo về đủ trăm con trâu béo, gạo nếp, rượu. Cao Lỗ nói:
-Đương cňn giữa độ cŕy! Vua Thục hỏi lại:
-ạng bảo thế nào? Cao Lỗ đáp:
-Trâu các cõi hiện đương làm mùa ngoài bãi, chưa đến lệ lấy trâu thịt.
-Nhưng ta phải mở hội khao quân tức thì. Cao Lỗ cúi đầu giây lâu rồi nói:
-Hằng năm, vua chủ có lệ lấy trâu thịt nhưng cũng chưa khi nào hạn bắt trâu đương làm giữa bãi. Vả chăng, mấy lâu nay, bốn cõi thật vất vả. Nhờ phúc to vua chủ được thần Rùa cho lẫy nỏ, mới đuổi được giặc, thiết nghĩ chẳng nęn bắt trâu lúc này... Vua Thục quắc mắt:
-ạng không biết vui được như ta đương vui rồi. Trông trước mắt kia, từ đây suốt đến Phięn Ngung chưa chắc đă còn thấy đủ bóng nửa con ngựa bố con uý Đŕ. Thế thì phải hội quân tiệc to đến nhường nào mới bõ công khó nhọc trận này.
Cao Lỗ lặng lẽ như đứng một měnh. Tự dưng nhớ lại ngày ở Vũ Ninh về, bỏ cày dưới bãi theo vua. Trải ngoài mười năm giặc Tần phạm khắp cõi. Long đong không lúc nào biết đâu nơi ăn chốn ở. Vua tôi cůng gối đất, có khi phải vặt cỏ ăn, dầu dăi, khó nhọc, chẳng lời nào nói cho thấu hết nỗi. Lúc bấy giờ chỉ mong sao thiên hạ được có ngày vỗ yên, tát cá, cày bãi, dệt vải, đủ cái ăn cái mặc. Vua tôi cũng như mọi nhŕ, sớm tối được miếng ăn miếng uống. Nghĩ thế đă là nên hội vui rồi. Cao Lỗ nói:
-Vua chủ có nhớ những ngày giặc Tần...
-Việc khi mở nước ấy bao giờ quên được!
-Còn nhớ tôi với chú Đống đem hai con trâu bắt được đi lŕm kế giết Đồ Thư. Mưu diệt tướng giặc to nhất mŕ phải mất hai con trâu, vua tôi nghĩ cùng xót ruột. Đến khi giết được Đồ Thư mŕ còn dắt về được một trâu, ai nấy đều hớn hở. Vua Thục cười:
-Ta vẫn nhớ chuyện ấy như mới hôm qua. Nhưng mà bây giờ khác xa ngày ấy. Cao Lỗ vẫn khăng khăng:
-Không, không... Vua Thục nghiêm mặt, quát:
-Lộng hành lắm, lộng hành lắm rồi. Đi đi cho khuất mắt ta. Cao Lỗ nhợt mặt, chắp tay, lůi ra. Vua Thục nhấc chiêng, cầm chiếc sừng trâu đong rượu gő ba tiếng. Một lũ các quan lạc tướng, tay xách giáo, lưng đeo nỏ, lục tục bước tới. Vua Thục nói:
-Lệnh cho các cõi nội nhật ba hôm đem về trâu một trăm con... Quan lạc tướng lạnh lůng khích một câu:
-Vua chủ mở hội khao quân, ai dám gàn quải! Vua Thục vẫn chưa qua cơn giận, hét:
-ạng nói ai gàn quải? Quan lạc tướng sợ quá, bỗng run rẩy:
-Vua chủ khao quân... Vua Thục gầm lên:
-Trăm con trâu... trăm con trâu...
-Dạ... dạ... Quan lạc tướng nói:
-Xin cho các cõi cùng được mở hội. Vua Thục lại cười khà khà:
-Phải, phải, các cõi cùng mở hội khao quân. Các quan đã lui xuống. Quản tượng đưa voi vào đợi rước vua chủ dưới chân thành. Vua Thục còn dừng lại trước bậc đá. Như nói một mình:
-Nỏ thần! Nỏ thần! Nhờ nỏ thần, ta đă bắn tan úy Đŕ, từ nay vững được tám cői. Của báu nỏ thần trên thế gian chỉ có một mình trong tay ta, chỉ một mình ta có. Cửa thành cấm này không ai được dòm ngó đến. Từ nay cấm ngặt. Cả Cao Lỗ cũng không được đặt chân tới.
VI
... Cho khuất mắt ta, đi đi... Cao Lỗ bước xuống bờ tường. Tự thấy mình là người có tội, mà lòng tràn uất ức, không biết nói sao. Phải đi. Làm thế nào bây giờ? Đã chập tối. Các phường trong thành, đâu cũng rực rỡ ánh đuốc. Tiếng trống, tiếng cồng âm vang dồn dập. Ngŕy hội thắng trận nô nức đă bắt đầu từ Kẻ Chủ ra các cői. Cao Lỗ nhìn vào trong thành. Những ô cửa đã lên đèn, soi tỏ cả nghìn vừng trăng trắng bạch cùng một lúc mọc đều. Tưng bừng từ thành nội... Nhưng mà trong nơi cung cấm ấy có những người suốt đời chỉ được nhěn cái vui thiên hạ rồi chết già ở đấy. Đấy lŕ đời những nŕng hầu, như đời Tŕm. Đời Tŕm, bao nhiêu gian truân éo le! Năm ấy, Tàm chỉ mới trạc năm, sáu tuổi. Mở mắt ra lúc nào cũng thấy mặt nước sông Lú đầu bè. Nhà Tàm ở trên mặt nước, xung quanh mái phên, lủng lẳng lắc lư những chân lưới hòn cuội va vào cục đất nung. Nhà bè áp bờ ghép gỗ kê trên mặt ống bương, rồi giát mai. Xa trông như một khoảng bãi đất kéo dài ra mặt nước. Có lẽ vì cả tám đứa con với bố mẹ quanh năm sống nhờ sông nước, nęn phải ở bè cho tiện, Tàm cũng không hiểu. Tàm bé nhất nhà. Suốt ngày, mọi người mò lặn dưới nước. Bố với mấy anh nhớn vác chũm đi úp ven bờ. Có ngày câu chạch, kéo tôm, có ngày đi bắt ốc. Những hôm rỗi rãi, mẹ lại dắt con lên bãi hái dâu. Dọc bãi trồng dâu nuôi tằm, trồng chuối và dứa dại lấy sợi dệt. Đęm hôm ấy, trăng đầu tháng như chiếc lá lúa phơ phất góc trời. Ngôi sao le lói cũng lặn rồi. Sáng sớm, mặt đất mặt nước cňn mù mịt, lẫn lộn. Nghe một tiếng rền cuồn cuộn như cơn sấm chuyển động từ chân núi ra. Tiếng người tiếng ngựa hay cả bao nhiêu voi đàn loạn rừng lồng xuống bãi. Hay mưa ống bão ống ập tới. Bố mẹ và các con ngồi dựng dậy, ngơ ngác. Không trông thấy gì, nhưng lập tức biết đấy là quân Tần tràn về. Thôi thế là không kịp trốn vào núi được. Cái bè chơ vơ trên mặt nước sương mù. Một đám người lố nhố nhảy xuống đầu sŕn. Bọn quân quan đi nă lương.
-Trâu đâu? Trâu!
-Không có trâu dưới nước.
-Không...
Lập tức, những mũi giáo xỉa xuống. Cả nhà, bố mẹ con cái chết rụi giữa đống tay nải và gánh ống cơm lam dựng bên vách. Quân Tần đốc lương lại sùng sục đi nơi khác. Tiếng người hấp hối, có lúc rống lên, có lúc rên rỉ. Tiếng máu chảy ghê rợn, óc ách mạn bè. Bỗng bé Tàm chui ra từ trong đống xác người. Tàm nhìn xuống không biết bố mẹ, các anh các chị đâu. Chỉ thấy một gò máu. Tàm trèo lên bờ, chạy vào trong sương. Hai tay ôm mặt. Cứ mở mắt, Tàm lại thấy đống máu và những mũi giáo xoàn xoạt xỉa xuống. Tiếng người thét, người khóc. Tàm gào lên. Không biết đã mấy ngày mấy đêm, bao nhiêu ngày đêm. Tàm cứ chạy, chạy mãi. Một ngày kia, Tàm mở mắt. Tàm thấy mình nằm bên một tảng đá, cỏ cao kín mít. Trông lên, bối rối cỏ xanh ngập quanh mặt. Nhưng nhìn kỹ, lại thấy trên ngọn cỏ thấp thoáng những con mắt đen láy. Những con mắt đen lay láy, nhiều quá, lung lay tręn các ngọn cỏ. Tàm chống tay, ngồi dậy. Những con mắt hốt hoảng chạy giãn. Tàm thấy đấy là một đàn vượn lông đen mượt. Những con vượn mẹ bước lưng gù gù. Đàn con lóc nhóc theo. Vượn mẹ ngồi quay mặt lại. Vượn con xúm quanh mẹ.
Vượn mẹ cứ ngồi ngắm Tàm. Tàm nhìn vượn mẹ với đàn con ríu rít loanh quanh. Vượn con trèo thoắt lên vai mẹ. Hai con mắt ngấp nghé. Tàm bỗng nhớ mẹ. Tàm ứa nước mắt. Những con vượn mẹ thấy nước mắt giàn giụa trên mặt Tàm, nhìn trân trân. Vượn mẹ có biết đấy là những giọt nước mắt. Rồi hoàng hôn xuống lặng im. ánh nắng còn hắt lên vàng rực một góc rừng. Những con vượn kiếm ăn rải rác các rừng tụ lại, kéo nhau lên ngủ trên hang đá cao. Vượn gọi nhau, chốc lại đứng hai chân trước, hú một hơi dŕi. Ngộ còn con nào mải kiếm ăn cũng phải biết nghe hiệu mà về theo đàn. Còn con vượn nào vẩn vơ dưới rừng. Không biết. Chỉ thấy một mình Tàm ngồi đấy.
Những vượn mẹ đă đứng dậy, bước đi. Vượn con vớ đuôi mẹ leo tót lęn cổ. Vượn mẹ không để ý. Bước thủng thỉnh, thong thả. Cả mấy vượn con lúc lỉu đánh đu tręn vai trên lưng. Xung quanh lặng ngắt. Tàm đứng dậy. Tàm chạy theo đàn vượn. Những vượn con, đã quen mắt nhìn Tàm từ bao giờ, không để ý có người đi cůng với. Vượn mẹ vẫn thủng thẳng, thong thả bước. Đęm ấy, Tàm ngủ trên hang đá. Đŕn vượn chúi vào nằm khe nào, Tàm không trông thấy. Trong bóng tối, có lúc nghe tiếng gừ gừ. Không biết vượn mẹ mắng con hay vượn con ngủ mê. Rồi Tàm cũng ngủ thiếp. Có một lúc, tiếng rít réo đinh tai. Tàm giật mình thức dậy. Xung quanh vẫn tối mịt. Nhìn mãi mới nhận ra khoảng cửa hang mờ mờ. Thói quen, vượn thường ngủ từ chập tối, dậy sớm. ở trong hang mà dường như đánh hơi được mặt trời sắp mọc phía nŕo, có hơi ấm má bên trái hay bên phải. Thế là gọi nhau xuống rừng. Tiếng hú, tiếng rít vang động các vách đá từ lúc cňn tối đất, chưa trông thấy mặt trời đâu. Tàm cũng theo đàn xuống rừng. Chẳng mấy lâu, có Tàm trong đàn, vượn thường đến kiếm ăn cánh rừng ấy. Chốc chốc Tŕm lại khóc. Đấy lŕ những khi Tàm nhìn đàn vượn con tíu tít trèo leo lên vai lên cổ vượn mẹ. Nước mắt Tàm chảy vệt hai bên má. Những lúc ấy, vượn mẹ, vượn con không hiểu thế nào, chạy lùi ra xa. Con mắt lơ láo nhìn, lạ lùng. Cứ đứng đấy, đến lúc thấy má Tŕm đă khô nước mắt, mới lại cùng nhau đi hái quả ăn. Đương můa ngõa. Quả ngõa chín đỏ thậm. Lá ngõa tròn che thành tàn tán một vùng mênh mông xanh liền cây nọ cây kia. Quả ngõa to bằng nắm tay, bằng quả bưởi, chi chít từ gốc cây lên đến cành la, trĩu từng chùm. Cánh rừng thơm nức mùi ngõa. Các loài ăn quả ăn cỏ lượn lờ đi lại rối rít như người đi hội lŕng. Từng đŕn hươu nai kéo đến. Con hươu sao rướn cổ nhìn quanh, rồi hục vào gốc ngõa, rứt cả chùm ra nhai tóp tép. Chốc chốc, ngứa khoeo, lại đạp hai guốc chân sau. Cái đá hậu đụng vŕo con nai khác vừa đi tới. Nai giật měnh nhảy dựng đứng hai chân trước. Thế lŕ bao nhiêu hươu nai trong rừng ngõa chồm lên, đá trước đá hậu loạn xạ rồi cất cẳng giỡn đuổi nhau đi tận đâu xa. Hôm sau mới thấy quay lại. Nhưng không biết có phải vẫn đŕn hươu đŕn nai ấy không. Những con gấu lầm lì nằm như lợn, hai chân trước quơ một ôm quả ngõa, cả quả xanh quả chín, nhá rau ráu. Hết ngõa ở gốc này, gấu lần sang gốc khác. Đêm nằm nhai tới khuya. Rồi ngủ luôn đấy. Có lẽ cho tới khi gốc cây chỉ còn lại vết nhựa ngõa sần sùi, những con gấu mới chui ra khỏi rừng ngõa. Đến khi một đŕn voi ập tới, cả cánh rừng rung lên như gặp cơn bão cạn xoáy trong khe núi ra.
Vòi voi quật tan hoang, trống hốc. Cả quả, cả chùm, cả từng tàu lá, cành lá cuốn tuột vào miệng. Những đàn khỉ, đàn vượn vào rừng ngõa, như những con chim chích lẳng lặng và tưởng như chẳng thấy đâu rung chuyển. Cánh tay dài khéo léo, vượn nhẹ nhàng bứt một quả rồi trèo lên ngọn cây, hai bàn tay bưng, cắn ăn. Có khi tìm được tảng đá thoáng, cả đŕn đem bŕy đống ngőa ra. Tay bê một quả, đưa lên miệng. Hàm nhằn thật nhanh, thật nhanh. Cây ngõa cổ thụ, gốc to như con trâu đầm giữa vũng bùn. Những cành lá trĩu ngay trên đầu. Tàm với tay lên, đâu cũng được. Tŕm chọn quả ngõa to bằng cái đấu, chín đỏ lịm, thơm nức. Tŕm đem ngőa ra ngồi trên tảng đá. Cùi ngõa đỏ lừ. Cục mật giữa ruột trong như mật ong
-ngọt mát hơn mật ong. Tàm nhai thong thả. Thỉnh thoảng, Tàm bẻ miếng cùi, đưa cho vượn con. Lại cho vượn mẹ cục mật ngõa ngọt lự. Chẳng bao lâu, Tàm đã thân thiết với đàn vượn. Có lúc vào rừng ngõa rồi, mà cả đàn cứ đi theo Tàm. Tàm biết vượn muốn ăn quả ngõa chín. Quả Tàm hái ngọt hơn quả vượn hái lấy. Tàm chọn quả ngõa chín, chìa cho cả đám. No rồi, nằm ềnh ra cỏ. Lơ mơ him mắt phơi nắng ấm. Có khi đŕn vượn quẩng mỡ, vui chạy giỡn lên. Tàm bỗng cười khanh khách. Tiếng cười giòn như tiếng nước reo trên đá. Thế nhưng đŕn vượn không ngơ ngác chạy lùi ra như lúc trông thấy nước mắt Tàm chảy trên má. Vượn vẫn múa hai tay dài nghêu lên đầu Tàm và tiếng cười của Tàm vòng quanh. Hết mùa ngõa đến mùa dưa đất. Rồi mùa trám, mùa mơ... Tàm đi kiếm ăn theo đŕn. Cứ thế, không để ý biết đâu được ngŕy tháng khác nhau thế nào. Đôi khi chợt trời mưa, trời nắng mới nhận ra trời đất đă đổi můa khác nhau. Đęm ở hang giá buốt. Nhưng Tàm đã biết tìm đá đánh lấy lửa. ở nhŕ, mỗi người đi đâu đều có hňn đá đánh lửa giắt cạp khố. Tŕm đă biết được cách đánh đá. Tŕm dọi đá cuội vŕo nhau thành lửa, sưởi. Những con vượn lông dày đen mướt, không biết rét, ở khe nào cứ đứng nguyên chỗ ấy. Những con gấu yếu chịu lạnh đã lù lù vào nằm một góc. Con rắn, con trăn lặng lẽ quấn mình quanh vấu đá gần lửa, im lìm ngủ vùi. Có hơi lửa, hang đá ấm hẳn hơn. Rồi lại tới những ngŕy ẩm ướt. Các loài chim ở đâu về kêu râm ran trên vòm lá xanh tơ. Đằng kia, hoa ban trắng mờ hơi sương. Ngoài rừng, bướm bay đàn rập rờn. Ngỡ ban rụng từng cánh, ban vàng, ban tím khác nhau. Mới lại sực nhớ trời đã ấm, chim non sắp ra ràng. Rét buốt hay mưa ẩm ướt lầy lội, đàn vượn cũng cứ đúng lệ, trời còn tờ mờ chưa dựng sáng đã hú gọi nhau xuống rừng tìm cái ăn. Tàm cũng quen thế. Tàm theo đàn vượn xuống rừng từ tinh mơ.
Váy áo vướng đá vướng gai đă vương đâu từng mảnh rách tươm hết. Ngày ở nhà, Tàm còn bé, thường theo mẹ lên bờ xe rọi đánh sợi tơ dứa, tơ chuối. Tàm lấy lá dứa ngâm xuống suối, phơi nỏ. Bã lá dứa tơi thành đệp trắng nõn. Tàm kết lại, quấn lên lưng, lên vai. Trời lạnh, ấm chẳng khác mặc váy áo. Xa trông, Tàm hệt con vượn trắng đầu tóc đen, như con vượn bạch đốm lông đen hai má. Tŕm đi giữa vượn mẹ, cao bằng vượn mẹ. Nhưng khác mŕu hẳn, vượn mẹ đen tuyền, hai má đốm trắng. Thế lŕ Tàm lại thuộc nếp sinh sống mới, đi đâu cũng có đŕn. Chỉ phải cái vào mùa lạnh, rừng hiếm quả ăn được. Đŕn vượn vẩn vơ đi těm quả trám, có khi phải ăn nắm lá thờn mát, lá ngót mấy ngŕy. Tàm không kiếm được gì để ăn. Lŕm thế nào bây giờ? Tàm chưa biết đan lưới săn. Tŕm không đẽo được nỏ. Không có gạo lŕm cơm, làm bánh dày, bánh lắng. Không có mật mía làm bánh mật. Không có thóc rang làm bỏng. Ngồi nhớ lại, Tàm cũng chưa nhớ ra được mọi cách, chưa biết tên hết các bánh mẹ đã làm. Mẹ ơi! Ngày trước, chỉ mới được trông mẹ nặn bánh, nấu bánh. Biết làm thế nào. Phen này chết đói mất. Tàm nhớ ra cái bánh ngói còn dễ làm. Mọi lần, Tàm vẫn xem mẹ làm. Những khi chơi nhởi trong bãi, các chị cũng hay tìm đất hun làm bánh ngói ăn. Tàm dần dần nhớ... -ờ, bánh ngói, bánh ngói...
Bánh ngói chỉ bằng đất thě chắc làm được. Chỗ rừng ẩm ấy có thể đŕo được đất lŕm bánh ngói. Tàm tìm đá nhọn, lấy cây hóp mài đốt cho sắc một đầu, rồi đŕo. Suốt ngày, được một hố ngang bụng. Tàm lại đào. Tàm đã khoét lên được một mảng đất thó dẻo. Ngửi hệt můi đất bánh ngói rồi. Mảnh đất xám tro, mặt vân lęn vệt gân nâu non đỏ như son. Thật mịn, mềm, nhấm không thấy sạn. Nhưng vẫn cňn hơi ủng mùi bùn lá chết. Tàm xắn được một đống đất thó lęn rồi nặn ra từng thỏi bằng ngón tay. Nhớ có lần mẹ đă vê vê thế. Những khi bắt đầu mùa lạnh, lại có mưa dầm rả rích, hôm nào không đi kiếm cái ăn dưới nước được, mẹ lŕm bánh ngói cả nhà ngồi nhấm nháp. Tàm phơi một lượt miếng đất trên mặt đá. Tàm đem những vỉ nứa, đặt ghếch cho đất mau khô cả hai mặt. Đất đă bay hơi, ngả màu xám trắng. Nếm bùi bùi đầu lưỡi. Dễ thường Tàm đương thèm mà nghĩ thế hay sao. Vượn mẹ xán lại, nghé nghiêng, nhòm vỉ đất thó. Tàm đưa mẩu đất. Vượn giơ hai tay cầm, cũng đưa lęn mũi, như Tàm vừa làm. Nhưng vượn mẹ không thè lưỡi nhấm miếng đất mà vượn mẹ cứ cầm khư khư, không dám bỏ xuống. Những con vượn con ngồi đông đầy quanh Tŕm. Tàm đoán vượn con muốn được bắt chước lŕm như vượn mẹ. Tàm đưa miếng đất thó. Những con vượn tranh nhau cầm ngửi rồi lại ôm miếng đất xuống ngực. Quanh quẩn chơi nặn đất với vượn thế, Tŕm cũng khuây khỏa. Tàm tìm các búi cỏ, lấy về một ôm cỏ tế và cành sim đã khô. Những thỏi đất được xếp bằng xuống mặt hố, lót cỏ tế, tręn phủ cành sim. Tàm đánh bùi nhùi lửa châm vào đống rấm. Khói bốc quẩn trong hố hun những thỏi đất, rồi khói nhạt đi. Tŕm cầm từng miếng lên. Miếng đất bánh ngói nóng thoảng ngậy mùi oi khói. Tàm đưa lên miệng, cắn một mẩu. Ngói bùi bùi, khê khê. Tàm bỗng dưng lại ứa nước mắt. Mọi khi, mẹ vẫn làm thế này cho các con ăn. Tàm bọc một ôm, đem về hang. Mỗi tối lấy ra nhấm nháp hai ba miếng.
†n đất chóng đầy bụng, chỉ đỡ nhạt miệng. Nhưng lại bần thần nhớ. Tai Tàm văng vẳng nghe những tiếng ồn ào ngoài cửa rừng. Quân Tần trảy hay là núi đổ. Tàm ôm tay lên mặt. Giữa đêm trong hang, Tàn khóc gào một lúc, rồi ngủ thiếp đi. ở rừng thế này đã lâu lắm thì phải. Không làm sao tính ra bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm. Chỉ thấy những lứa vượn con đă lớn rồi đi theo đŕn khác. Vượn mẹ, hai bịu má nhăn nheo chảy xuống, vai gầy nhô đầu xương. Phía chân sau, ngồi nhiều, lông rụng trơ từng mảng. Mấy lứa vượn con đă lớn, mấy lứa vượn con đi theo đŕn khác, Tàm cũng không nhớ. Tàm lân la ra cửa rừng. Cũng không biết cửa rừng xa hay ở phía nào. Bấy lâu ở với đàn vượn, Tàm quen nhởn nhơ rừng sâu như vượn. ở rừng ngủ núi như nhà mình rồi. Nhiều lần trông thấy con hổ đứng gườm gườm đằng kia. Tŕm cũng không biết sợ. Mŕ có nhẽ hổ cũng tưởng Tŕm lŕ con vượn. Hổ hay vượn, rồi mỗi con lại đi kiếm ăn về một phía. Vượn đi phía nŕo cũng kéo một lũ. Có Tàm bước lênh khênh giữa bọn. Những vượn con lứa này đã lại cao vóng ngang vai mẹ rồi. Sắp lớn, lại sắp đi đŕn khác. Tàm đứng tha thẩn nhìn đầm lầy. Những ngọn cỏ nở hoa xòe trên mặt nước. Tàm nhấc một bông lên. Hoa vàng nhạt, cuống dài như cỏ xước. Tàm nhận ra đấy không phải hoa cỏ. Đấy lŕ bông lúa ma. Tàm nhớ có lần mẹ vào cửa rừng, cả mấy chị em theo. Mẹ con đi bứt lúa ma mọc trên mặt bãi bùn. Không ai hái lúa ấy, mỗi mùa lúa chín rụng, lúa cứ ken dày mãi, hạt lúa mọc sùi ra như hoa cau, hoa dừa đến độ chín vŕng. Tàm luống cuống hẳn lên. Gặp được cơm ăn rồi. Tŕm ngắt từng bông lúa. Những con vượn đứng lố nhố trên bờ. Không dám lội bùn, nhưng cứ xúm xít đấy. Tàm ném lên một bông lúa. Vượn tranh nhau cướp, nhằn nhằn từng hạt. †n xong lại ngẩng mặt, hí hửng tìm nữa. Lúa ma lấy về phơi, giã. Hôm ấy, đã đủ gạo. Tàm làm được ống cơm trong hang đá. Cơm chín tới, khói thơm tỏa trên đầu ống nứa tươi. Những con vượn hếch mũi, giơ tay bâng quơ, muốn khều lấy mùi thơm. Tàm hớt một mảy cơm bỏ xuống mặt đá. Tay vượn hấp tấp chụp lấy. Nhưng lại rụt ngay. Hạt cơm nóng rát. Chốc, cơm đă đi hơi. Vượn rụt rč nhặt một hạt. Vượn đưa lên miệng từng hạt. Những con vượn khác đã đánh hơi biết thức ấy ăn được, chen đến kiếm chỗ mặt đá cňn mùi cơm nóng. Tàm và đàn vượn ăn sạch ống cơm lam dài bằng bắp chân. †n hết, lũ vượn chạy đi chạy lại hú, kêu rối rít. Vui quá. ý chừng muốn ăn nữa. Nhưng nước mắt Tàm lại ứa ra. †n cơm, nhớ mẹ. Thấy thế, đàn vượn nhảy lùi, mắt hấp háy nhìn Tàm. Đến khi Tàm quệt khô hết nước mắt trên má, đàn vượn mới lại mon men tới gần. Một ngày kia ấm trời. Suốt các cánh rừng, đã đến mùa hoa nở rực rỡ. Không biết những hoa gì, nhiều thứ quá.
Chỉ thấy lao xao những hồng, những bạch, những tím, bạt ngàn. Lại không biết đằng xa đương tới, từng đŕn bướm giập giờn hay những mảng hoa gió đưa qua lẫn lộn, lung linh lay động khắp các bụi cây, các băi cỏ. Gió nồm ấm thổi vào rừng, mọi vật đều cảm thấy phởn phơ, phổng phao, ngứa ngáy, nhấp nhổm. Con gấu núp trong hốc đă bước ra nhặt trám. Đŕn hươu sao và những con nai kéo lũ đến nhảy giỡn trên đám cỏ non xanh mởn. Những con gà rừng con vồng làn đuôi đỏ biếc mượt mŕ lên. Những con voi, những đŕn lợn động cỡn, chạy rŕo rào qua. Các cánh rừng bỗng dưng nghiêng ngả như có cơn bão cạn từ các khe núi luồn ra giữa ngày lấp lánh nắng. Tàm và đàn vượn đã ra cửa rừng từ sáng sớm. Tàm giã sẵn gạo, bỏ vào ống, xuống ngồi lam cơm ngay trên bờ đầm lầy. Vượn thích ăn cơm, lại ăn tham, nhai phồng căng cả běu cằm. Tàm đóng cọc, dựng một dãy ba ống nứa to. Một mình Tàm, ăn cố cũng chỉ hết một ống. Hai ống cơm kia để chia cho đŕn vượn. Khói đốt ống lam đă thơm lừng. Đŕn vượn vui, chạy quăng chân như múa trên bãi cỏ. Vượn biết sắp được ăn, đua nhau hú đinh tai.
Đến lúc ăn xong, người vŕ vượn cùng nằm him mắt, sưởi nắng. Những con vượn ăn no, ườn ra phơi nắng, gối lên nhau. Vượn con nằm nghếch lên đầu gối, lên bụng Tàm. Tàm nhìn lên khoảng trời xanh ló ra giữa cánh rừng. Lâu quá, quen rồi. Những sọt thóc để trữ ăn můa chưa có lúa. Bây giờ thì ở mãi đây được. Tŕm không nghĩ khi nào Tàm đi đâu. Đi đâu. Đă mờ mờ dần, đi đâu? Tŕm ở với đŕn vượn cũng giống ngày trước ở với cả nhà dưới bè trên mặt sông. Đàn vượn như anh em chị em nằm sưởi nắng chen nhau quanh Tàm. Tàm áp má xuống cỏ, ngủ say. Không biết bao nhiêu lâu. Một lúc, Tàm nghe tiếng rít, tiếng hú. Tàm đã quen tai nghe vượn gọi nhau như thế. Tàm từ từ mở mắt. Tàm trông thấy đàn vượn nhảy choi choi giơ chân trước, há miệng gào quanh Tàm. Chưa trông thấy đàn vượn đùa lạ thế bao giờ. Tàm lặng lẽ nhìn vượn mẹ, vượn con. Những tiếng rít, tiếng rống lộng óc. Những hàm răng vượn nghiến kèn kẹt. Tàm không hiểu thế nào. Rồi thình lình cả đàn chạy biến mất vào rừng. Tàm lẩm bẩm:
"à mẹ con nhà vượn rủ mình đi kiếm quả ăn". Nhưng giữa lúc ấy, Tŕm chợt cảm thấy là lạ. Tàm quay mặt ra phía rừng hôm trước có đàn phượng hoàng đất bay ra. Tàm trông thấy một đám người lố nhố vào. Tàm thoáng nhớ, Tàm nhớ ra đàn vượn đã đánh hơi biết khác, đă rủ Tàm chạy. Mà Tàm không biết. Tàm đứng phắt dậy. Tàm chạy. Những tiếng kêu đuổi theo.
-Có phải người đấy không? Phải người đấy không?
-Đừng chạy! Đừng chạy!
Một bọn đă chắn ngang phía rừng trước mặt. Đă lâu không nghe tiếng người. Tiếng vỡ oang oang, không biết ai hét, ai nói. Tàm líu chân lại, không bước được. Tàm đứng sững ra đấy. Người các phía kéo đến. Tŕm dần dần nhớ ra nhận ra hình như những người đấy là bọn phường săn. Phường săn lưới, cả săn nỏ. Những cánh nỏ, những ống tęn dài vút. Tàm là con nai, con hươu, lưới và nỏ quây quanh. Tàm chợt nhớn nhác, co chân, lại toan chạy. Một ông lão tóc bạc phơ, quấn khăn chàm, bước ra, nói:
-Đừng sợ! Đừng sợ! Những ngŕy nắng ấm, vua chủ thường về đi săn với các phường lŕng ở những cánh rừng ven sông. Toàn quân phường săn với người làng kéo vào rừng hôm ấy, từ đằng xa, đă trông thấy đŕn vượn, trong đŕn có con vượn trắng. Vượn trắng thật hiếm. Chẳng ai đă được thấy vượn trắng. Chỉ nghe nói người đời trước có lễ nộp vua Tần phải đi lůng rừng tìm vượn trắng. Năm nŕo, vua Tần cũng đňi cống vượn trắng. Thế là các lưới quây lại con vượn trắng của hiếm. Vào gần đến nơi, mới nhìn ra không phải vượn trắng. Mà đấy là người. Trong phường săn có nhiều người ở bờ sông Lú, nhưng không ai còn có thể nhận ra, cũng không ai ngờ được đấy lŕ con bé cái Tàm ngày trước sống sót đã chạy được vào rừng. Phường săn các ngả mỗi lúc kéo tới một đông. Họ đứng quây quanh. Bây giờ, thật lŕ đứng trước một người, ngang lưng quấn những đệp tơ dứa, tơ duối trắng bạch lô xô như mớ rạ. Người con gái đẹp lồ lộ. Tay lấm bůn đến khuỷu mŕ cánh tay nuôn nuốt trắng ngần. Người con gái lắp bắp, run rẩy, ú ớ:
-Quân... Tần... Phường... săn... Những người xung quanh nghe không rő. Lâu lắm, Tàm không nói tiếng người, tiếng nhớ tiếng quên mất rồi. Mà những người trẻ cũng không còn mấy ai nghe nói đến quân Tần, cũng chưa nghe ra thật. Chỉ có ông già phường cả đã nghe rõ, chợt hiểu, bèn nói to:
-Không, không phải quân Tần...
-Quân Tần... ạng già lại nói:
-Không, không. Ta là phường săn. Tàm lắc đầu.
-Cháu chạy vào rừng từ năm giặc Tần à? Tàm gật đầu. ạng lão thở dài.
-Đă ngoài mười năm rồi. Các chú này không nhớ mấy đâu. Đến ngŕy được běnh yên, tưởng người các làng ở rừng đã ra hết cả rồi. Cháu là con cái nhà ai? Tàm đã bạo hơn lúc nãy và nghe lại tiếng người cũng đă quen, nhớ dần.
-Cái Tàm... ạng lão vỗ trán, rồi hỏi to:
-Nhà Tàm ở bè à? Nhà cháu chết cả rồi mà... Tàm không biết trả lời thế nào. Chỉ nói buông gióng một:
-Không.
Một toán quân nữa kéo đến. Cả nhiều người lŕng. Nhưng cũng chỉ còn có mấy ông già mang máng biết tung tích đứa trẻ ngày trước mà thôi. Mọi người cứ trố mắt, lạ lùng thấy một cô gái như tiên sa đứng giữa rừng. Lại băn khoăn không thể hiểu được đây lŕ người hay là ma, hay đây thật là cô tiên trên trời sa xuống. Dần dần, nhiều người run sợ, không biết thế nào. Mấy người vác đến một sọt trầm, đổ xuống bęn tảng đá cňn lỏng chỏng mấy ống nứa lam cơm. Khói trầm dâng lên, thơm ngào ngạt. Mọi người cùng sụp ngồi, rạp đầu xuống vái cô tiên. Những người khác vào rừng chặt tre, buộc được cái kiệu, có đňn bốn người khiêng. ạng lão nói:
-Thuyền vua chủ ta đậu ngoŕi bờ sông. Đám người dắt Tŕm ngồi lên kiệu rồi chạy thoăn thoắt ra cửa rừng. Tàm hớt hải quay đầu lại. Không trông thấy đŕn vượn đâu. Tŕm bưng mặt khóc. Những người khiêng kiệu vẫn phóng đi như ngựa. Tŕm không thò chân nhảy xuống được. Đống trầm trong cửa rừng cňn lui hui khói. Đi đâu thế nŕy. Tàm ơi, người ta mang mày đi đâu. Tŕm hốt hoảng ôm mặt khóc rưng rức. Chẳng biết đŕn vượn kia vẫn đương bíu nhau, ngấp nghé trong rừng nhěn ra. Hay còn hãi người săn quá, đă ẩn lên tận vách đá nào.
* * *
Đęm trăng xuống mờ mờ. Cạnh bức tường đất thŕnh ốc lượn tròn, có một bóng người cắm cúi bước lên. Đến một chỗ trống, trông rõ đấy là Cao Lỗ. Vai Cao Lỗ đeo chiếc tay nải. Như người đường xa lỡ chân khuya mới về, còn len lỏi tìm xuống phường bên kia hỏi nhà chứa trọ. Cao Lỗ lần theo vòng thành xoáy dần lên cao. Đến một đầu tường, chỗ có ụ canh bỏ không. Cao Lỗ đứng lại. Phía trước mặt, bęn rặng bờ rào xương rồng mọc chằng chịt, nổi lên bóng một bức tường đầu nhŕ. Cao Lỗ rút ở tay nải đeo vai ra một ống sáo. Tiếng sáo thanh thảnh, véo von giữa trời nước mịt můng bát ngát. Tiếng sáo làm cho ánh trăng bỗng nõn nà. Dường như làm cho người nghe thấy lại dưới trăng trời đất rộn rŕng năm nao, những đám trai gái trong thành ngoài cõi đương tấp nập kéo đá ong, đội đất đắp thŕnh. Tiếng sáo làm gợn dần lên trên bức tường đen sẫm một khoảng tròn trắng mờ như có một vừng trăng nữa ai mới cời lên treo cao cao ở đấy. Cao Lỗ bước tới chỗ chân tường dưới song cửa tròn, có vòng sáng ánh đèn trong cửa vừa rạng. Tiếng hát đâu đây, rập rờn như sóng nước. Ai đi nhớ Về thương Ai nhớ ai thương ai Im lặng một lúc. Tiếng người cách tường, phảng phất. Bóng Tŕm ló ra trên cửa, nhìn xuống.
-Mình khăn gói đi đâu kia?
-Tôi phải đi đi cho khuất mắt vua chủ.
-Đi đâu?
-Tôi phải đi.
-Mình nói sao? Tàm khóc. Tiếng Cao Lỗ như giục giã:
-Chúng mình cùng đi.
-Em từ thuở bé, ở rừng lớn lên, rồi vào cung cấm, coi như đời người đă bỏ đi rồi. Tiếng gŕ gáy eo óc. Trăng đă xế xuống dải bãi ngô bên kia sông. Bóng nước lẫn vào lá ngô óng ánh, lẫn lộn.
-Mình đi, thì ai người can ngăn vua chủ bây giờ? Không, mình đừng nên đi. Im lặng.
-Mình ơi, mình đừng đi. Cao Lỗ đứng im, ngước mắt. Nhưng không trông thấy vňng cửa sáng tròn trên đầu. Một lúc lâu. Cao Lỗ tần ngần rồi nhấc tay nải, khoác lên vai, bước lấp bóng xuống những bậc thành lúc nãy vừa lên.
VII
Triệu Đŕ biết khó đánh được Thục, bčn dùng kế hiểm, sai sứ sang cầu hòa. Rồi cho con trai đi làm con tin. Lại xin cưới công chúa Mỵ Châu cho con được ở rể. Tướng quân Cao Lỗ nói với vua Thục:
"Quân Triệu lúc nào cũng nhòm ngó ta, nay nó mượn cớ cầu hòa, cầu hôn là có rắp tâm hiểm độc". Nhưng vua Thục không nghe.
(Truyền thuyết Hùng Vương-Hội Văn nghệ tỉnh Vĩnh Phú 1981)
* * *
Đầu năm, můa ấm áp đã trở về. Đất Kẻ Chủ lại vào hội lệ. Mặt nước sông Cái phẳng lặng như tờ. Những đàn rùa bơi quanh cụm lá súng xanh, tròn xoe. Chiếc hoa súng cánh trắng mới nở, nghển cao, nghiêng theo gió thổi. Những lũy tre ken dày bọc quanh tường thành. Tre non trổ lá vân vân vờn lên như khói. Bóng tre giỡn gió ngả dài theo bờ tường. Bốn phía, cánh bãi, đầu làng, đâu cũng những bờ tre bao bọc. Những con đường thuôn dŕi, xa xanh, thăm thẳm. ở một xóm nŕo vẳng lại tiếng giã gạo chày đôi. Chày khua kêêng kêêng vào thành cối. Vui chẳng khác tiếng gõ vào tang trống đồng. Từng đoŕn người đi dưới những vňm tre trên các đường làng. Lão ông khăn điều đầu rěu, râu bạc phơ, tay cầm quạt trượng, mở ra, nghiêng lên, che hờ làn mưa bụi. Trai gái ríu rít từng đám. Chiếc xe trâu kĩu kịt qua. Trên xe, ngồi xếp bằng tròn những người lực lưỡng cởi trần, khố bao. Tiếng trống cơm bập bùng, lắc lư theo bánh xe. Khắp các nơi kéo về hội Kẻ Chủ. Lễ xoan mở đầu năm mới. Lŕng làng nặn trâu đất lấy khước, khiêng trâu đất ra đồng "đánh tan giá lạnh, mở việc đồng áng". Những cây tre để nguyęn cả ngọn cao vút dựng trước cửa mỗi nhà. Trên ngọn tre treo từng chùm khánh đất nung, gió lùa, reo loong coong. Những bãi trồng cà bát, lá xanh trổ phơi phới, hoa tím thẫm một dải bờ sông. Làng nào cũng vào hội, nhưng hội Kẻ Chủ bao giờ cũng nô nức nhất thiên hạ. Bởi hằng năm, vua chủ lại nhân hội đầu xuân mŕ kén tướng võ. Vui nhất mở ra hội vật, rồi đến hôm thi bắn nỏ là đóng hội. Bốn phương về đua tŕi. Lại có các quan lạc tướng ra đấu vật thử sức.
Cả vua chủ cũng lên gióng đấu làm phép cho nghiêm việc quân hằng năm. Từ mấy năm nay, hội xuân cŕng vui hơn. Đúng vŕo dịp này, thiên hạ trẩy hội còn được xem đám rước lễ cống đầu năm của vua Triệu vừa kịp dâng đến Kẻ Chủ. Từ gŕ gáy, những cây đěnh liệu tre khô đă sáng trưng các ngã năm ngã sáu đường vào thành. Trời rạng dần. Nhiều người đã tụ đông quanh gióng vật. Những chiếc xe trâu đưa tay đô các cői tiến vào đứng một lượt bên kia. Các lạc hầu, lạc tướng cưỡi ngựa tới, ném dây cương cho quân dắt ngựa vào buộc dưới rừng bàng. Bước lên lầu, các quan, mình cởi trần, choàng vuông áo khoác. Các quan võ ngồi ngoài cùng. Trong hàng, đủ mặt ba tướng anh em họ Phạm, hai ông họ Đinh, ông Cao Tứ, ông Nồi hầu với tướng Đống, tướng Vực đương sức trai mười tám đôi mươi. Cao Lỗ ngồi cạnh Trọng Thủy. Trọng Thủy cũng khoác tấm vải phủ lưng như các lạc tướng. Khác cái, bên trong mặc thêm chiếc áo thâm. Hồi trống đồng nổi hai bên gióng vừa dứt. Các tay đô vật đă nhảy vờn tay múa quấn dây, múa chào khách tám cõi về hội. Trên thềm cao, vua Thục nhìn ra đám người về mỗi lúc càng đông. Mà ngoài kia vẫn còn rộn rịch khắp các ngả đường. Hai tay đô đă vào gióng. Những bắp tay cuồn cuộn nổi chão. Những khoeo chân dựng đứng như gốc tre đực. Bŕn tay bắt xuống, đảo thế vật, người ngoŕi trông cũng đă hoa mắt. Nhưng hai tay đô ấy mới múa vờn thử dň sức nhau, rồi lại lùi ra, dang tay rảo bước vun vút quanh gióng, như đương đi těm miếng vật hiểm ở đâu đây. Các cô váy chồi yếm vải, thắt lưng hoa hięn lỏa tỏa bay tung, quấn lên tận búi tóc. Các cô tố nữ dàn quanh gióng vật, chắp tay, thả xuống từng đám trầm hương bụi đỏ như phấn. Trầm bén lửa, bůng lên. Tiếng hát râm ran thánh thót một vùng.
Trúc nở lá trúc
Vông ra hoa vông
Vây bên vợ cây bên chồng
Ngay ngày đội gạo
Nước sông cơm đům
Sang đoŕi lên bắc
Mừng ai thả sức đua tŕi.
Tiếng trống đồng vẫn điểm từng giọt. Tiếng nhịp nhŕng cầm nhịp cho đất nước vŕo hội mừng xuân. Ngoài bến, những chiếc thuyền thúng chi chít như lá tre thả ngang sông. Người vẫn còn dập dìu về nữa. Trên thuyền, đầy con trai, con gái và tiếng hát. Trọng Thủy nhìn quanh, rồi nói:
-Thật là hay, thật là hay. Tôi mới được xem đấu vật lần nŕy là một. Cao Lỗ nói:
-ở cõi chúng tôi, đấu vật là hàng đầu các phép võ; đến đứa trẻ cũng phải biết. Hội chơi đấu vő đấu vật cũng lŕ hội kén tài. Trọng Thủy chắp tay:
-Phong tục đất ta thật lŕ quý hóa. Cao Lỗ say sưa kể:
-Hằng năm, vua chủ tôi chọn người vật giỏi, vő giỏi ra làm quan. Các quan hằng năm cũng ra đọ sức nhau. Ai đuối tŕi thì trở về làm dân các cõi. Ha ha... Vậy ở Phiên Ngung thế nào... Trọng Thủy lúng túng:
-Chúng tôi... Cao Lỗ cả cười:
-Mời ông chốc nữa lên thử một tay. Trên gióng, một đô vật ngã. Tiếng reo dậy bốn phía. Hai đô khác bước ra. Vua Thục đứng lęn, giơ tay thúc ba dùi xuống mặt trống. Cao Lỗ nói:
-Bây giờ đến tuần các quan vŕo gióng vật. Trọng Thủy có vẻ băn khoăn, lo lo:
-Đức ông... Cao Lỗ không để ý, vẫn nói:
-ừ, ai ra đấu với ai cũng được! Ai cứng cỏi nhất thě được vŕo thử tay đọ với vua chủ. Trọng Thủy kęu lên:
-Phép tắc đất ta nghięm ngặt đến thế kia ư? Cao Lỗ thong thả nói:
-Nghiêm mà không ngặt. Cõi chúng tôi, vua tôi cùng nhau cày bãi, cắm dâu, đi chân đất, tắm chung một quăng sông, lúc hoạn nạn cũng như khi yên vui, thế là thói thường. Vua Thục thong thả thúc từng dùi trống. Cao Lỗ bảo Trọng Thủy:
-Nào ông cởi áo khoác, lên gióng thử một lèo với ta. Trọng Thủy khúm núm:
-Lạy đức ông, tôi không được hiểu. Cao Lỗ nói:
-Việc võ thì thiên hạ đâu chẳng như nhau. Trọng Thủy như năn nỉ:
-Lần đầu, mới được vua chủ cho theo hầu các đức ông ra xem hội. Lại nói:
-Vả chăng, tôi đương đợi lệnh vua chủ cho lên ngược đón đồ cống. Cao Lỗ cười:
-Khéo chống chế thế. Thôi ông đừng lo, tôi không ép. ạng cứ đợi đây rồi đi đón đồ cống.
Nhưng Trọng Thủy vẫn đứng yęn, chăm chú nhěn Cao Lỗ vừa ném xuống ghế mảnh áo lông chim trĩ rồi ung dung bước ra gióng, không ngoảnh lại. Hai vai trần lực lưỡng của ông tướng võ che nửa khung cửa. Trọng Thủy trông theo Cao Lỗ, mắt đăm đăm. Cao Lỗ đă ra giữa gióng vật. Hai tay chống nạnh. Hai đầu gối hạ xuống, bŕnh ra. Một ông quan võ bước lên. Vuông áo trên lưng còn rườm rà kéo ra mép gióng, tận trước mặt Cao Lỗ. Cao Lỗ cười nhếch mép, giơ tay vứt hộ tấm áo khoác lụa điều của ông quan vắt lên thành gióng. ạng quan trịnh trọng giơ tay làm hiệu đôi bên múa vờn. Rồi ông quan võ quờ hai tay ra, bắt miếng. Cao Lỗ lắng một cái. ạng quan đă loạng quạng, chới với. Cao Lỗ hất theo. ạng quan ngã lăn giữa tiếng hò reo lẫn lộn tiếng xì xào. Một ông quan khác bước ra. ạng này cao lớn, mặt đỏ phừng. Nhưng Cao Lỗ mới chỉ nghiêng vai lắng, ông quan đã lao đầu xuống. Máu mũi đổ rňng ròng trên mặt cát. ạng chống khuỷu tay mấy lần mà không ngồi lên được. Một ông quan võ nữa ra. ạng quan võ thong thả cởi áo. Cao Lỗ hỏi:
-Sao mùi rượu lừng lên thế? ạng quan võ cười gằn:
-Có rượu mới hăng được.
-Nào, xem rượu hăng thế nào nào? Hai người múa vờn quanh gióng mấy vòng rồi vào cuộc. ạng này cũng chẳng khác mấy ông trước, vừa trở tay đã ngã bổ chửng. Cao Lỗ vẫn đứng nguyên giữa gióng. Cao Lỗ ngẩng mặt, nói to:
-Ai không say hẵng ra gióng, nào ai... Rồi Cao Lỗ ngửa cổ lên cười to một tiếng. Nghe ra không phải tiếng cười người được trận, mŕ tiếng cười gay gắt.
Đôi lông mŕy Cao Lỗ dựng lên. Sức lực các quan lạc tướng đểnh đoảng thế, rő ra việc quân có bề chểnh mảng. Ngày trước, lệnh vua chủ ban ra từ trên xuống dưới, ai cũng biết phân biệt rành mạch phép tắc khi rượu vui, với phép vua khác nhau trời vực. Khắp các gióng vật khác đóng quanh băi cũng đương rộn ră đua tŕi. Các trai tráng tay đô mới thắng cuộc, được tuyển hớn hở bước vŕo nhà quán. Các tướng, Cao Tứ, Đô Nồi, các ông họ Phạm, họ Đinh đều lẫm liệt ra gióng. Tướng Đống, tướng Vực đă vật đổ suốt mặt các đô trẻ vừa tới. Rậm rịch náo nức lạ thường. Vua Thục đă bước ra. Vua Thục ngoảnh lại các hàng quan, nói:
-Không còn ai địch với ông Đô Lỗ, với bố con ông Đô Nồi được ŕ? Đô Lỗ nói:
-Người tài các cõi không thiếu, các tay đô mới được tuyển vŕo ngồi đầy nhŕ quán. Chỉ có các quan bấy lâu được ơn vua chủ cho về Kẻ Chủ ngồi trong thŕnh uống rượu, nhiều người đă đuối rồi. Vua Thục cười:
-ạng oai phong như thớt voi trận thế kia, có đến đô nňi đương sức cũng chưa chắc đă dám ra so với ông. Cao Lỗ nói:
-Tôi vẫn như mọi năm, vẫn ra giữa gióng thế nŕy. Các nhà võ ra làm quan càng nhiều, chẳng nhẽ người giỏi lại chịu lép vế tay tôi mãi hay sao. Không phải, không phải. Cánh tay bắp chân nhiều người đã chảy ra rượu cả, mỗi hội lại phải đuổi các quan về đánh cá bắt ếch ngoŕi cõi nhiều quá. Thì quả là điều đáng nghĩ. Vua Thục cười to:
-ạng nói đúng, thế nhưng chưa phải. Tết nhất, hội hč, trong thành ngoài cõi vui chơi, coi như đương nhiên mà quan nào đuối tài thì rồi về câu ếch, có gì đáng nghĩ nào. Không còn ai đáng mặt ra gióng đọ với ông, tôi với ông, ta vŕo giải vật mừng. Vua Thục hất áo xuống đất, uốn měnh múa vờn. Hai tay đô lăo luyện vào miếng khóa, nhưng không lắng. Rồi lại vươn người hoa tay liên tiếp bắt nhau chan chát. Nghe tưởng người ngã oanh oách. Nhưng đấy chỉ là những bàn tay bắt vào vế, vào vai, vào khoeo bị bật ra. Vua chủ đã tuổi tác, mà đường vật còn khí thế lắm. Hai người lại đứng yên, giữ miếng. Khắp bãi nổi sóng reo như sấm dậy. Rồi vua chủ và Cao Lỗ cùng buông tay, ra đứng giữa gióng. Vua Thục vỗ vai Cao Lỗ xong lại giơ đọ với cánh tay Cao Lỗ.
-ạng đă biết sức ta.
-Sức hổ! Sức hổ! Thật phúc cho đất nước!
-Một tiếng ta thét còn như sấm động đến tận núi Ngũ Lĩnh. ạng nghe đấy không?
Rồi vua chủ lại ngửa mặt cười. Cao Lỗ cau mày nhìn Trọng Thủy đương bước lùi ra. Các trận đấu vật tuyển ở thành vua trên Kẻ Chủ thật náo nhiệt. Nhưng mới chỉ là mở cuộc giáo đầu cho các cõi. Say đấy cả tháng, khắp nơi mới vào hội thi các phép võ. Rộn rịch cả một mùa hát xoan, ngày ngày sôi sục bãi đấu, bãi tập. Suốt từ các sông con ra sông cái ngược lên, vào đến tận Cửu Chân. Những cuộc luyện thủy trận, tượng trận, mã trận, bộ trận, mỗi vùng một công phu. Voi ngựa, giáo mác ngổn ngang, rầm rộ như chông, như rừng. Năm năm, vua chủ cho mở hội chọn người khỏe vŕo các cơ ngũ trong thành ngoài cõi đầy đủ. ạng Đô Lỗ, ông Đô Nồi, tất cả các tướng đổ đi mọi nơi cầm trịch tuyển người. Hội xoan ấy, có Trọng Thủy trong hŕng các quan lạc đi tuyển. Từ khi Trọng Thủy tới, vua Thục đối đăi nhất mực đại độ. Trọng Thủy được lĩnh chức quan lạc, ngồi vŕo hàng các quan đầu triều. Trọng Thủy vái Cao Lỗ và các hàng quan:
-Tôi được theo các đức ông ra xem việc ngoŕi cõi. Xin dạy bảo cho. Cao Lỗ cười ngất:
-Nước tôi chỉ có ông được vŕo hàng quan mà không phải theo phép võ thôi đấy.
Cũng nhiều tai tiếng đồn đại từ ngŕy Trọng Thủy được vŕo thành vua. Nhưng kể ra, hai lần giặc đã tan tác như mây khói, bây giờ trông thấy kẻ phương xa phải đến làm chân tay, đi đứng khép nép, nhớn nhác, kể cả trong dân gian cũng có nhiều người hả hê. Mấy năm nay đâu đấy được yęn vui, được můa. Những việc vua quan xa xôi trên đầu, rồi cũng nhãng dần. Các quan bận bịu trong quán trước các gióng vật, các bãi đấu. Những trận vật, trận roi các nơi đă xong. Các tay đô giật giải ngoài cõi lại tề tựu về cuộc kén quan trong thành vua ở Kẻ Chủ. Cả trăm lực sĩ lên ngựa, chạy thúc ra giữa bãi, tung giáo. Đường giáo hoa bay vun vút như mây mù. Từng chiếc ngựa vượt qua trước nhà lễ. Các quan trên đài nhịp nhàng điểm trống, điểm mő. Một ngựa từ đằng cuối băi phóng tới, dừng phắt. Hai chân trước dựng đứng. Nhưng chiếc giáo tręn tay vẫn hoa đều, không thấy ngọn, không thấy cán. Chiếc giáo múa trắng như cái tŕn lụa bạch che kín đầu người đầu ngựa. Một hồi trống điểm dồn. Lực sĩ dừng tay giáo, ruổi ngựa thong dong ra đứng đợi vŕo đấu. Lực sĩ khác thúc ngựa tiếp vŕo. Con ngựa ấy bị kìm mạnh quay một vòng đầu bắt đuôi. Đường múa chợt chůng, nhô lộ cả mũi đồng, cả cán giáo. Ba tiếng mő giật thót lưng, đuổi người thua tŕi chạy buông thõng hai tay. Chiếc ngựa lủi ra, ngập lẫn trong vòng người đương chen lấn vào. Hôm sau mới đến cuộc đấu giáo. Từng cặp lực sĩ cưỡi ngựa. Tay cắp dựng giáo, vai che mộc. Hai ngựa sóng đôi vŕo trước đŕi, bỗng vụt quay ngang, lao vào quần thảo. Tiếng giáo chặn nhau xoang xoảng. Một đỡ mũi giáo bật vang khô như tiếng mő. Ai lỡ tay đâm vŕo ngựa địch thủ, bị một hồi mő đuổi ra ngay, vě lỗi đánh trộm. Cňn gãy giáo, vỡ mộc, trúng thương, đều phải loại. Hai lực sĩ quần nhau giữa nhịp dùi trống đồng buông đều đều. Vừa đủ hai chục tiếng, thế là một hồi cồng nổi tiếp lên. Hai lực sĩ ấy đã được lựa, nét mặt hớn hở, thong thả giong ngựa về trước nhà quán. Cùng xuống ngựa, vắt thừng cương lên đầu cọc, dựng giáo, xếp lá mộc dưới thềm, khoan thai bước vào. Múa giáo, đỡ mộc, đánh khiên đã tươm tất cả. Nhưng bắn nỏ mới là cuộc thi hệ trọng nhất trong nghề võ. Từ các vua đời trước, tới bây giờ, thời nào cũng trọng người tài nỏ hơn cả. Người về xem thi nỏ càng đông gấp bội. Hàng trăm, hàng trăm cây tre được khięng đến, bắc giŕn tầng tầng lên cho cả nghìn cả vạn người được nhìn thấy các tay nỏ tài trong thiên hạ. Một cột gỗ nổi dựng giữa bãi cao gấp đôi mái nhà công quán. Lực sĩ ruổi ngựa tới, hạ nỏ tì ngang ngực.
Cách cột đích một bờ cỏ mấy trăm bước, buông một phát. Tęn cắm vào cột. Rồi ngựa phi vòng quanh bãi, giữa tiếng reo sôi nổi. Mỗi lần con ngựa quay lại, người lại giương nỏ. Mũi tên sau cắm trúng đuôi tên nỏ trước. Mười lần bắn ra, mười lần tên cắm đuôi nhau thẳng tắp bằng chiếc thân giáo dài cả mấy sải tay. Cồng thắng rộn rã nổi lên. Một tay nỏ khác vào. Một phát véo ra khoảng không. Con ngựa của người thua nỏ cũng hoảng hốt, khấp khểnh chạy về cuối bãi trong bụi mù mịt. Cưỡi ngựa bắn nỏ xong, đến cuối cùng, cuộc thi đi bộ bắn nỏ. Người đứng cách xa cây đích gấp đôi tầm nỏ ngựa. Năm tiếng trống rền lęn. Giữa năm tiếng đồng ầm ầm, lực sĩ giương nỏ, rút tęn đẩy vŕo máng, bật lẫy. Dứt năm tiếng trống, người cũng vừa buông xong mười phát nỏ. Đuôi tęn trước còn rung, tên sau đã cắm tới, chồng lên thành một chuỗi ngay chăm chắm. Người lực sĩ hiên ngang bước vào quán khách. Tiếng đồng trầm rền lên báo kết thúc cả ba tao vào trận. Mai kia mới đến mùa quân thủy luyện nỏ trên thuyền. Đến tập nỏ thủy trận không phải vào cuộc tuyển nữa. Mỗi hôm, Trọng Thủy đứng dậy giữa các quan võ vừa cầm trịch thi đấu xong, ai nấy mặt đỏ rực, hể hả. Một ngŕy náo động, ganh đua kén tŕi. Cả một hàng chiếu liền các lực sĩ được chọn vào hàng quan mới đương ngồi hớn hở ăn uống ngay giữa băi. Trọng Thủy lại đăm đắm nhěn Cao Lỗ khoan thai gác chiếc dùi trống đồng dài như cái chày giã gạo lên giá trống, bước xuống ngồi vào mâm với ông Đô Nồi, các tướng Đống, tướng Vực vŕ giữa các tướng trẻ mới được cuộc tuyển. Trọng Thủy đă chăm chú nhěn ngắm Cao Lỗ như thế từ hôm mở đầu hội vật, lúc Cao Lỗ lẫm liệt ra giữa gióng, căng sức như tay đô đương độ tuổi. Đến bây giờ, Trọng Thủy mới mang máng hiểu ra cái nhěn từ hôm ấy của mình. Một hàng các quan đương bước tới. Các ông Đinh, các ông Phạm oai phong khác thường. Tướng Đống, tướng Vực trẻ măng, tấm áo chồi sẫm đỏ. ại, thân phận ta đă hai lần chạy chết ở ngay bên sông trước mặt thành kia. Vì nỏ thần ghê gớm, bí hiểm, mà cũng vì trùng điệp hàng hàng quân tướng hừng hực phương cương mãnh liệt nhường này nữa đây. Trọng Thủy chưa dám tự tiện ngồi xuống chiếu rượu với các quan.

Không có nhận xét nào: