Thứ Tư, 26 tháng 12, 2007

Nguyễn Bỉnh Khiêm 2




*
Cuộc hồi loan của nhà vua đã được nhân dân khắp vùng đón rước thật là nồng nhiệt. Suốt dọc đường, hai bên bờ sông, cờ vũ mao của nhà vua đi đến đâu là người ta đổ xô ra tới đó, reo hò, tung hô "Vạn tuế", có lúc đẩy nghiêng cả tàn lọng, cờ quạt. Các làng xã đều đặt long đình, hương án bên đường để làm lế bái vọng. Có nơi các bô lão còn dâng sớ chúc mừng cùng bày tỏ niềm tin sẽ được nhà vua khoan giảm. Khắp các phường phố kinh đô, cờ xí rợp trời, tiếng loa dậy đất, quân dân chen chúc nhau hồ hởi khác thường. Lâu lắm rồi người ta mới được thấy một cảnh tượng như vậy.
Ôi, người ta khao khát hòa bình, trật tự biết bao. Chỉ cần đẩy lùi được chiến tranh, giặc giã là người ta thấy sướng vui như chết đi sống lại. Người ta tưởng chừng như chính vua Mạc đã làm được việc đó và sẽ đem lại cuộc sống bình yên như họ hằng mơ ước. Trong chốc lát, người ta như quên đi tất cả những cảnh đen tối trước mắt, mà chỉ còn nhớ đến những ngày an lạc mà chính nhà Mạc đã đem lại cho họ trước đây. Người ta lại hy vọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã được chứng kiến đầy đủ cảnh tượng này
trong khi hộ giá nhà vua trở lại kinh thành. Như vậy thì nhà Mạc phải đâu đã mất hết thời cơ để thống nhất đất nước và đem lại cuộc sống yên vui cho trăm họ, nếu như vua tôi đều đồng tâm nhất trí lo toan việc đó. Họ còn có lực. Họ còn có dân. Nhưng tiếc thay, bọn triều thần đớn mạt bao quanh nhà vua nào có nghĩ thế.
Tuy nhiên tai họa lớn vừa qua cũng làm cảnh tỉnh được phần nào nhà vua cùng một số triều thần còn có ít nhiều tâm huyết. Nhà vua đã cố gắng tự nắm lấy quyền chính để cho Khiêm vương Mạc Kính Điển được chuyên tâm hơn vào việc quân. Hàng loạt đại thần dều dâng sớ nêu rõ thực trạng lộn xộn, thối nát trong chính sự và mạnh dạn khuyên nhủ nhà vua gia tăng phép nước để bầy tôi không dám chuyên quyền.
Mạc Phúc Nguyên không phải là không chấp nhận tất cả những ý kiến chân thành và
xác đáng của họ. Nhưng thi hành những điều đó lại là chuyện khác. Cả bộ máy thừa hành từ trên xuống dưới đã không còn là công cụ đắc lực cho nhà vua nữa rồi. Tuy nhiên trên một số mặt sinh hoạt bình thường, tình hình bề ngoài cũng đã trở lại được nhịp điệu như trước. Khoa thi Hội năm Quý Sửu (1553) vẫn được mở theo đúng kỳ hạn. Năm sau đó, Giáp Dần (1554), niên hiệu Cảnh Lịch được đổi thành niên hiệu Quang Hòa năm thứ nhất để chứng tỏ với muôn dân là nhà vua đã quyết tâm đổi mới.
Tình thế đã tạm thời cho phép quân Mạc mở những cuộc phản công quy mô hòng gỡ khỏi thế bị động trên cả hai mặt trận. Mặt trận phía nam, đánh thẳng vào căn cứ Lê TrịnhThanh Hóa, và mặt trận phía tây bắc nhằm
thẳng vào sào huyệt của Vũ Văn Mật ở vùng Hưng Hóa, Tuyên Quang. Bọn này càng ngày càng tỏ ra hung hãn, quấy rối sau lưng quân Mạc và gần đây đã phối hợp với quân Trịnh tiến đánh kinh thành, trở thành một thế hết sức nguy hiểm.
Và lần này Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được sung vào đạo quân Tây Bắc cùng với một số văn thần khác.
*
Đây không phải là lần đầu Nguyễn Bỉnh Khiêm được cử vào nhiệm vụ này. Vào khoảng đầu đời Cảnh Lịch chính ông đã hộ giá nhà vua thân chinh đi chiến dịch đó. Những ký ức về cuộc hành quân gian nan vất vả này hãy còn như rất mới mẻ trong tâm trí ông.
Hồi ấy quân Mạc quả thật là một lực lượng hùng hậu. Khí thế ra quân cũng rất hùng dũng. Nhà vua đã biết sử dụng khá nhiều văn thần để làm nhiệm vụ an dân sau khi quân đội chiến thắng. Nhưng Vũ Văn Mật đã tỏ ra là một địch thủ lợi hại hơn người ta tưởng rất nhiều. Chỉ sau khi quân Mạc "khải hoàn" về ít lâu là y đã nghiễm nhiên trở lại làm chủ hầu hết những vùng đất đai phải tạm rút bỏ, và lại còn nắm trong tay cả một lực lượng còn lớn hơn trước nhiều. Cuộc tấn công mãnh liệt và bất ngờ vừa rồi về tới kinh đô cùng với những cánh quân tiên phong của họ Trịnh đã làm cho nhiều người, trong đó có Nguyễn Bỉnh Khiêm phải hết sức ngạc nhiên.
Vũ Văn Mật là ai? Y cùng người anh, Vũ Văn Uyên, thực ra chỉ là những gã phiêu lưu gặp thời. Trong cái buổi thế nước rối ren loạn lạc này, những hạng người như anh em hắn chẳng phải là hiếm. Vốn người xã Ba Động, huyện Gia Phúc, trấn Hải Dương. Vào cái thời Quang Thiệu (1516-1522) hay Thống Nguyên (1522-1527) nhà Lê gì đó vì can tội giết người, hai anh em liền trốn khỏi quê quán, lần mò lên đến vùng Tuyên Quang này nương nhờ một nhà giàu ở xứ Đại Đồng, châu Thu Vật. Nhân thấy người tù trưởng ở đây bị dân chúng địa
phương oán ghét vì tham lam, độc ác, hai anh em liền liên kết bè đảng đi giết và cướp lấy đất, tự biến thành lãnh chúa cả vùng này.
Thế là từ đó hai anh em đã bắt tay vào một cuộc kinh doanh rộng lớn, mở mang ruộng nương, phố xá, chợ búa, cầu đò. Lại chiêu tập những người dân phiêu tán từ những miền xuôi chạy lên đây đã khai phá đất hoang, lập thêm làng ấp. Chẳng bao lâu khu vực Đại Đồng đã trở thành một thị trấn sầm uất, trên bến dưới thuyền bán buôn tấp nập. Nhân dân no đủ. Thật khác xa với quang cảnh tiêu điều đang bày ra khắp nước hồi đó. Văn Uyên đã mất để lại toàn bộ giang sơn cho em nối nghiệp.
Thời đó vua Lê đã không còn đủ sức nắm lấy những vùng biên viễn xa xôi nữa, đành phải phong cho Văn Mật chức Đô tổng sứ Tuyên Quang, tước Khánh Dương hầu và cho quyền được tùy nghi tuyển mộ binh lính trấn giữ địa phương. Lợi dụng điều kiện hết sức thuận lợi này, Văn Mật đã mặc sức mở rộng phạm vi thế lực ra khắp cả một miền rộng lớn bao gồm các châu Thủy Vĩ, Văn Bàn, Lục Yên, Thu Vật, Vị Xuyên thuộc trấn Tuyên Quang, và có lúc ra đến tận các phủ Lâm Thao, Đoan Hùng, Đà Dương trấn Sơn Tây và các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ trấn Thái Nguyên nữa.
Cho đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê thì Vũ Văn Mật đã có thể đường đường tuyên bố chống Mạc, xây đắp cả một hệ thống thành lũy kiên cố khắp các châu huyện và chia quân thành 11 doanh để trấn thủ các nơi hiểm yếu. ở trấn Đại Đồng, y đã xây dựng một triều đình riêng, cũng đủ bá quan văn võ. Y còn mời cả nhà ẩn sĩ Nguyễn Hàng ra giúp việc chính sự. Tuy đã từ chối mọi nhiệm vụ mà Văn Mật giao cho, những Nguyễn Hàng cũng phải thốt lên những lời ca ngợi đến kinh ngạc trước cảnh sống phồn vinh và quy mô đường bệ của cái triều đình riêng một góc trời ấy.
Như vậy là khi tuyên bố chống lại nhà Mạc,
ý đồ của họ Vũ đâu phải là nhằm khôi phục nhà Lê mà là để lập nên một vương triều cát cứ lâu dài. Nhưng khi được tin nhà Lê bắt đầu công cuộc trung hưng ở Thanh Hóa, thì Văn Mật không dại gì mà không bắt tay với lực lượng này để chia sẻ thế lực của nhà Mạc và mượn danh phù Lê để tăng thêm uy tín trong quần chúng. Vì thế y đã dâng biểu quy thuận vua Lê Trang Tông (1533-1548) và tất nhiên tờ biểu đã được chấp nhận một cách hết sức vui vẻ.
Vua Lê và nhất là Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm đã thấy ngay được vị trí lợi hại của Vũ Văn Mật trong sự nghiệp trung hưng của mình, vừa là một gọng kìm kẹp vào sau lưng quân Mạc, lại vừa là một cửa ngõ thông sang nước Minh để khi cần có thể qua đường này mà xin cầu viện. Và quả nhiên khi nhà Minh mượn cớ phù Lê diệt Mạc mà sai bọn Cừu Loan, Mao Bá ạn tiến quân thì bọn này đã có mật hẹn với Vũ
Văn Mật để dùng y làm quân tiên phong dẫn đường cho chúng. Tuy sự việc này đã không xảy ra, nhưng Văn Mật cũng thường có những mối quan hệ ngấm ngầm nguy hiểm với bọn quan lại bên kia biên giới. Chính những hoạt động này đã làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải suy nghĩ nhiều trong chuyến đi chinh phạt trước đây. Sứ mạng của ông quả thật tế nhị hơn nhiều so với quan niệm của triều đình và nhất là bọn võ tướng chỉ huy mặt trận.
Trước hết là phải nêu cao được danh nghĩa điếu dân phạt tội của nhà vua, ban hành nhân chính để cảm hóa lòng người chứ không thể chỉ đơn thuần dựa vào võ lực. Điều đó lại càng khó khăn vì nhân dân vùng này đã có cả một thời khá lâu được sống yên ổn và no đủ dưới bàn tay cai quản của hai anh em họ Vũ. Tuy những năm gần đây họ có bị bọn này vơ vét khá nhiều để đổ vào cuộc chiến tranh với nhà Mạc, đời sống có giảm sút đi, nhưng vẫn chưa thể vì thế mà họ dễ dàng từ bỏ lãnh chúa của họ.
Hơn nữa, cũng không thể dè chừng một cuộc đụng độ, tuy chỉ xa xôi bóng gió nhưng không thể tránh khỏi với bọn quan lại "thiên triều" vốn vẫn giữ liên hệ với họ Vũ để tính chuyện lâu dài. Có lẽ cũng chính vì vậy là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh của nhà Mạc, nhà vua cùng Khiêm vương phụ chính đã cử nhiều văn thần vào hàng cao cấp đến thế đi theo việc quân. Ngay chính nhà vua, khi ấy hãy còn nhỏ tuổi, cũng thân chinh ra trận để nêu thêm danh nghĩa.
Chuyến ấy ra đi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng các bạn ông đã phấn khởi tin tưởng biết bao nhiêu. Nhà vua đã tin dùng bọn văn thần? Nhà vua đã quyết định thi hành đường lối nhân chính, mở rộng việc chiêu hàng để chinh phục lòng người và hạn chế phần nào thói tham bạo của đám tướng lĩnh? Có lẽ lúc này là cơ hội thuận tiện nhất để được gần gũi nhà vua, thuyết phục nhà vua hướng theo đường lối đó? Và nếu như chiến dịch này mà toàn thắng, đúng như quan niệm chiến thắng của các ông, nghĩa là chiến thắng về mặt nhân tâm, khiến cho lòng dân ở cả những miền rừng núi xa xôi này từ nay cũng sẽ tự nguyện từ bỏ bọn cát cứ yêu nghiệt mà hướng về nhà vua, thì quả thật đó sẽ là một chiến thắng kiểu mẫu, một phương thức chiến tranh kiểu mẫu giúp cho nhà Mạc thu phục được giang sơn, chấm dứt cảnh đất nước chia cắt.
Tiếc thay, tất cả những lý lẽ ấy đã không thể thuyết phục được bọn tướng lĩnh. Những cuộc chinh chiến liên miên và cả cuộc đời vào sanh ra tử mà họ rất đỗi tự hào có lẽ đã tạo
cho họ những thói quen, những nếp nghĩ thật là đen tối, tàn bạo. Kiêu ngạo, độc đoán, chỉ thích chém giết, tàn phá, cướp bóc.
Nhưng trước những đội quân hùng mạnh của triều đình, Vũ Văn Mật đã không dại gì mà tung lực lượng ra đánh. Trái lại y đã khôn khéo dùng kế lui quân về cố thủ trên vùng thượng nguồn hiểm trở. Thế là cả một vùng rộng lớn, từ Lâm Thao, Đoan Hùng sang đến Phổ Yên, Đồng Hỉ lại trở về với nhà Mạc hầu như không qua một trận đụng độ đáng kể nào. Công việc bình định như thế tưởng chừng là sẽ dễ dàng. Đây chính là lúc nhân danh nhà vua ban bố chiếu mệnh an dân, mở lối chiêu hàng, rộng tha những kẻ bị lôi cuốn theo giặc, chiêu mộ dân lưu tán trở lại làm ăn, cắt đặt kẻ chăn dân để mau chóng ban hành giáo hóa, làm cho xa thư lại về một mối.
Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng các bạn của ông đang hăm hở bắt tay vào một công cuộc đầy hứng thú như vậy thì bọn tướng tá đã làm cho các ông phải thất vọng hoàn toàn. Căm tức vì không thể tiêu diệt được chủ lực và đầu não của đối phương trong những căn cứ hiểm hóc của họ, lại bị sa lầy vào những vùng hẻo lánh xa xôi, rừng thiêng nước độc, tin tức không thông, lương thảo cạn sạch, bệnh tật ốm đau, cả đạo quân hùng hậu mang danh nghĩa vương sư chẳng bao lâu đã biến thành những toán giặc cướp không còn kỷ cương gì hết. Cả một vùng Đại Đồng trù phú là vậy mà sau khi quân Mạc rút qua chỉ còn là đống tro tàn. Khắp nơi xóm làng xơ xác, vườn tược tiêu điều, đồng ruộng hoang rậm. Còn đâu là danh nghĩa của đoàn quân điếu phạt, còn đâu là lòng tin của dân chúng nữa. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải khóc lên trước những cảnh thương tâm ấy, khóc lên về sự bất lực của chính mình, vì trách nhiệm không được hoàn thành.
Rút cục, cuộc hành quân đã thực sự thất bại, mặc dù người ta vẫn cố bày trò "khải hoàn", luận công ban thưởng để trấn an quân sĩ. Và chỉ ít lâu sau đó, khi Vũ Văn Mật trở về thì vùng Đại Đồng cùng các châu huyện xung quanh lại thuộc về vương quốc của y như cũ...
Vậy thì trong chuyến đi này, liệu ông còn có thể thi thố được điều gì tốt đẹp? Sự thật vẫn diễn ra chẳng có gì khả quan hơn cả.
Đã thế vừa đặt chân về tới triều đình thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại nhận được những tin bại trận còn thảm hại hơn nữa. Cả một đoàn quân lớn đông đến vài vạn chiến sĩ cùng hàng trăm chiến thuyền dưới sự chỉ huy trực tiếp của Khiêm vương Mạc Kính Điển vừa thua lớn ở mặt trận Thanh Hóa. Hàng mấy nghìn quân cùng vài chục viên tướng, trong đó có Thọ quận công chỉ huy thủy quân đã bỏ mạng. Khí giới thuyền bè hầu như mất sạch. Kính Điển
chỉ còn thu nhặt được ít tàn quân lếch thếch chạy về kinh thành.
Cũng như mấy lần trước đây, cuộc đại thắng của quân Trịnh lần này vẫn chủ yếu là do bọn hàng tướng Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang và nhất là danh tướng trẻ tuổi Nguyễn Quyện đóng vai chủ chốt. Điều đó càng làm cho nhà Mạc hết sức lo ngại.
Tình thế đã cấp bách đến mức nhà vua cùng Khiêm vương không thể để cho Nguyễn Bỉnh Khiêm, mặc dầu tuổi già sức yếu, được nghỉ ngơi về thăm nhà, theo yêu cầu khẩn thiết của ông nữa. Một nhiệm vụ hết sức quan trọng, mà lại mười phần khó khăn tế nhị, chỉ có ông mới có khả năng làm được. ạng được cử đi mặt trận Sơn Nam để tìm cách liên lạc với tướng Nguyễn Quyện, vốn là học trò cũ, mà lại là con của người bạn thân, để dụ anh ta trở về với nhà Mạc.
Tất nhiên, một lần nữa, Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể từ nan. Nhưng ông cũng lường trước được tất cả những nỗi éo le sẽ đặt ra trước mắt. Mọi việc đưa đón sắp đặt thì đã có viên tướng Nam đạo chịu trách nhiệm cả rồi. Nhưng biết ăn nói với anh học trò Nguyễn Quyện sao đây, trong khi ông cầm chắc là sẽ không thể lay chuyển được ông bạn Nguyễn Thiến, cha anh ta rồi. Chỉ nội một việc cha con Phạm Quỳnh còn đó và vẫn được nhà vua trọng dụng cũng đủ làm cho ông ta không thể trở về. Vả lại ông bạn cũng đã ngoài bảy chục tuổi đầu rồi còn gì. Thế mà một khi ông bạn còn ở bên đó thì làm sao con ông ta đành lòng bỏ về với Mạc?
Nhưng những cảnh tàn phá đau thương mà chính tay anh ta đã gieo rắc mấy lần trên đất Sơn Nam trù phú kia, và có lần ngay cả bên cửa ngõ kinh thành đã làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải suy nghĩ nhiều. Vả lại, nghĩa vua tôi dầu sao cũng là rường mối trong đạo lý làm người. Thà rằng như Lương Hữu Khánh hay Phùng Khắc Khoan thì lại là chuyện khác. Cả hai người đã có quan hệ vua tôi gì với nhà Mạc đâu. Đằng này, ít ra thì anh ta cũng đã có hai đời gắn bó với vua Mạc, làm sao nỡ một ngày dứt tình mà quay giáo làm thù. Cái cảnh tàn quân của Mạc Kính Điển lếch thếch trở về cùng nỗi hốt hoảng của nhà vua đã để lại ấn tượng quá sâu trong tâm trí ông.
Thế là một lần nữa ông lại phải tạm gác mối tình quê để ra đi.
X
"Thiên hạ chăng tư, ấy của chung"
"Bụt Nam hạ lại từ oản chiêm?", cái câu nói chẳng ra khôi hài mà cũng chẳng ra than vãn ấy quả đã nói lên rất đúng một nét sinh hoạt của người dân miền chiêm trũng hạ bạn trấn Sơn Nam. Thì ra ở đây đến Bụt cũng chịu chung một số phận chẳng lấy gì làm tươi đẹp lắm của con người, quanh năm chẳng bao giờ được nếm miếng cơm dẻo gạo mùa, còn nói chi đến miếng oản nếp mùa thơm tho, béo ngậy. ở đây làng xóm cứ như là những hòn đảo nhỏ chật hẹp, nhà cửa chen chúc cùng với mảnh vườn chỉ bằng lòng bàn tay. Bước ra khỏi xóm là chỉ có nước và nước. Đi một bước cũng phải lội, hoặc dùng thuyền thúng.
Một cuộc sống bình thường vốn đã vất vả như vậy mà giờ đây còn bị đảo lộn cả lên. Đất Sơn Nam từ lâu đã trở thành như một khu đệm giữa hai vương quốc đối địch: Nam triều và Bắc triều. Chính cái tính chất đó đã tạo cho cả một vùng rộng lớn này những nét sinh hoạt thật là khác lạ.
ở đây hầu như vắng bóng đàn bà, con trẻ, vắng bóng những cụ già, những người chân yếu tay mềm và những hạng người có của. Họ đã phiêu dạt đi khắp nơi để tránh họa binh
đ ao, hoặc sống lẩn lút trong những túp lều tạm
bợ giữa những lùm cây rậm hay trong hang núi. Còn lại chỉ là một hạng người khỏe mạnh, gan góc, táo tợn với một nếp sống khá kỳ quặc, có thể nói là "ngoài vòng pháp luật".
Lúc thường thì đám người này cũng làm ăn lương thiện như ai. Cũng cày cấy, cũng chài lưới... Nhưng nếu có dịp thì không ít người đã tụ tập nhau lại thành đoàn để đi cướp bóc, phá phách như những tên lục lâm chính cống. Có bọn bỗng trở thành những tay buôn chuyến giàu sụ. Có gì đâu. Một cuộc hạn hán hay lụt bão ở phía bên này hay bên kia, giá gạo bỗng lên vùn vụt. Thế là họ "vượt tuyến" chở gạo đến. Thật cứ như là vơ được tiền của, vàng bạc vậy. Nhưng tất cả số của trời ơi ấy họ cũng chẳng cần giữ làm gì. Họ quẳng cả vào những canh bạc hay quán rượu cho thỏa thích chốc lát, rồi lại ra đi mạo hiểm làm một chuyến khác. Có khi họ lại đường hoàng chuyên chở cả vũ khí, lương thảo cho một cuộc hành quân lớn bên này hay bên kia. Và tất nhiên là cả hai bên đã khôn khéo sử dụng bọn họ như những tên gián điệp chuyên nghề lợi hại để dò la tin tức, đưa đón nhân vật này hay nhân vật khác, hoặc có khi làm hướng đạo trong những cuộc hành quân bí mật qua những đường ngang lối tắt mà hầu như chỉ có họ biết được. Có người trong bọn họ vì vậy mà đã lập được công lớn, được phong chức tước hẳn hoi... Cuộc đi công cán của Nguyễn Bỉnh Khiêm lần này đã được bố trí khá kín đáo. Hành dinh bí mật của ông
được đặt ở một nơi khá xa mặt trận để có đủ an toàn và yên tĩnh cho ông làm việc, nhưng đồng thời lại rất thuận tiện cho việc liên lạc một mặt là với kinh đô, mặt khác là những đầu mối đi lại bí mật của quan Mạc thông sang đất địch. Đủ biết là nhà vua cùng Khiêm vương coi trọng và trông chờ ở kết quả việc làm của ông đến mức nào.
ạng được xếp đặt ở ngay gần một ngôi chùa cổ nổi tiếng ở vùng hạ bạn trấn Sơn Nam. Đó là chùa Phổ Minh, một địa điểm có thể khêu gợi cho người ta khá nhiều ký ức lịch sử. Nơi đây chính là làng Tức Mạc, đất thang mộc của nhà Trần xưa, sau được đổi làm phủ Thiên Trường với cả một loạt cung điện, đình chùa được dựng lên làm nơi di dưỡng cho những vị Thái thượng hoàng sau khi đã nhường ngôi báu cho con(1).
Nhưng tất cả cái quy mô đường bệ ấy nay còn đâu! Lịch sử chỉ mới trải qua vài trăm năm thôi, mà biết bao nhiêu cuộc tang thương biến đổi! Đâu rồi những cung Trùng Quang, cung Trùng Hoa... của vua Trần? Cái vạc chùa Phổ Minh nổi tiếng là thế mà nay cũng chỉ còn là niềm luyến tiếc của mọi người. Quân xâm lược tàn bạo nhà Minh đã đang tâm phá hủy nó, như chúng đã chủ trương phá hủy mọi di tích văn hóa truyền thống của ông cha ta, để đúc thành súng đạn bắn vào nghĩa quân ta. Ngay đến cái chùa Phổ Minh, niềm tự hào của nền kiến trúc địa phương này cũng đã phải trùng tu biết bao nhiêu lần rồi? Còn chăng của quá khứ là mấy cái bậc thang tam cấp chạm rồng uốn khúc mà thôi.
May thay, lòng dân đối với cái triều đại anh hùng ba lần chiến thắng quân Nguyên ấy thì vẫn còn nguyên vẹn. Trong một ngôi miếu cổ khiêm tốn thôn Tức Mặc, 12 tấm bài vị của 12 vua Trần, vẫn được đặt trên ngai rồng và vẫn ngát mùi hương khói vào những ngày kỵ, những ngày tuần tiết, mặc dù quanh đây, hàng mấy chục năm rồi vẫn là chiến tranh, loạn lạc.
Bâng khuâng xúc động với những ký ức xưa, Nguyễn Bỉnh Khiêm ngẫu hứng nên bài thơ Chơi chùa Phổ Minh. Cảm giác về sự mất mát quá ư phũ phàng qua dòng thời gian, đã làm cho ông đến choáng ngợp. Nhưng chính trong những giây phút cảm động ấy ông lại như chợt phát hiện ra một nhân tố vĩnh cửu, bất khả chiến bại, ngang tầm rộng lớn với trời đất, tuy đó chỉ là một nhân tố vô hình. Phải chăng cái đó là lòng người?
Nhưng lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu còn thư thái tâm hồn để mà thả mình theo hồn thơ, theo những suy tưởng cao siêu như thế. Công việc trước mắt đã thu hút cả tâm trí ông.
Kế hoạch của quân Mạc là bố trí phục binh, nhằm bắt sống được Nguyễn Quyện để giao
cho ông dụ hàng. Nhưng rủi thay, chờ đợi đến hàng tháng trời mà vẫn chẳng thấy tăm hơi viên tướng vốn rất xông xáo này đâu cả. Œm mưu mai phục đã bị lộ rồi chăng? Rất có thể. Chỉ mới về đây ít ngày Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhận ra ngay thái độ rất chủ quan, thiếu cảnh giác khá lan tràn từ trên xuống dưới trong đám quân tướng nhà Mạc. Việc bố phòng vì vậy còn quá sơ sài, trễ nải. Cuối cùng thì ông đành phải thuyết phục viên tướng Nam đạo thay đổi chiến thuật, cứ để ông viết thư dụ hàng và tìm cách bí mật gửi thẳng đến cho cha con Nguyễn Quyện ở phía bên kia.
Tất nhiên là công việc này cũng chẳng dễ dàng gì hơn kế hoạch đã định trước.
Cái khó nhất vẫn là chỗ không thể không có mấy lời với ông bạn già Nguyễn Thiến. Trách móc ư? Khêu gợi sự ăn năn nghĩ lại ư? Làm sao có thể như thế được. ạng hiểu lắm. ạng bạn nào có vui vẻ gì khi phải từ bỏ nghĩa vua tôi, từ bỏ bạn bè thân yêu của mình để ra đi một cách phũ phàng như vậy. Vả lại kẻ gây ra nông nỗi éo le này lại chính là những người "thân" của mình. Nhưng có việc gì mà phải thanh minh nhiều lời cơ nhỉ. Có bao giờ ông bạn không hiểu cho lòng ta đâu. Tốt hơn hết vẫn là tình bạn thông cảm như xưa. Nhưng chính cái đó lúc này mới khó ăn nói làm sao! ạng đã viết rồi lại phải xé đi biết bao nhiêu dòng chữ, biết bao nhiêu trang giấy mà vẫn không sao thấy xuôi được. Chỗ thì đọc lại nghe sao mà giả tạo làm vậy. Chỗ vừa mới xem qua đã thấy chướng làm sao, cứ như lên mặt nhắn nhủ dạy đời. Mình còn thấy thế thì ông bạn làm sao mà cảm thông được. ại, tình bạn! Khi còn ở bên nhau, có bao giờ hai người phải nhắc đến nó đâu nhỉ. ấy thế mà cử chỉ nào cũng thật ăn ý với nhau, lời nói nào cũng thấy ngọt ngào, ý vị. Còn bây giờ thì...
Bỗng một đêm thanh vắng, còn đang mơ mơ màng màng trong giấc ngủ chập chờn bên ngọn đèn tàn, thì ông chợt giật mình tỉnh hẳn dậy. Cái gì thế nhỉ? ồ, một bài thơ nguyên vẹn, hoàn chỉnh vừa mới bật ra trong tâm trí ông như một tia sáng. Một bài thơ. Thế mà tại sao suốt mấy hôm nay ta chưa nghĩ đến điều đó nhỉ. Chỉ có thơ mới dễ dàng đi thẳng vào lòng ông bạn được thôi. Chỉ có thơ mới dễ ngọt ngào tình xưa nghĩa cũ.
Ta giữ kẻ côi vì chút nghĩa, Bạn đương khi biến há cam lòng, Khí vận một vòng ly lại hợp, Sông dài há có hạn Nam, Đông.
Chưa mấy khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy được bình tâm như thế, khi ghi lại bài thơ dự định gửi đi cho bạn. Một bài thơ đúng lúc, đúng ý mình. Một bài thơ hợp tình, hợp cảnh.
Và suốt đêm ấy hình như bài thơ đã trả lại cho ô ng một giấc ngủ yên lành.Sẵn cái đà đó, chỉ sáng hôm sau là bức
thư bằng thơ gửi cho anh học trò Nguyễn Quyện cũng được soạn thảo xong, sẵn sàng giao cho người chuyển đạt.
Đạo ở mình ta có khó gì, Phương chi chí khí đã tương kỳ
Nghìn năm quân phụ cương thường đó Trung hiếu một lòng chớ đổi đi.
Thế là trách nhiệm được giao phó, ông đã hoàn thành một cách suôn sẻ đến không ngờ.
Nhưng thực tình mà nói, Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu dám tin vào kết quả của những bức thư này. Tình bạn ư? Tình thầy trò ư? Vẫn là sâu nặng đấy. Nhưng đối với những con người biết suy nghĩ như cha con ông bạn Nguyễn Thiến thì bên trên những thứ tình cảm cao quý ấy, lúc này còn có một điều hệ trọng hơn nhiều, đáng làm cho người ta phải cân nhắc hơn nhiều, đó là câu chuyện chọn chúa.
Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn chưa thể quên được những lời lẽ tuy có vẻ phũ phàng nhưng không phải là không có sức mạnh thuyết phục bằng sự thật của Lê Bá Ly hồi nào, trước các hàng quân, khi quyết định từ bỏ nhà Mạc về với nhà Lê: "Nay gặp hôn quân, không biết minh đoán, chỉ nghe lời dèm pha khiến cho bao nhiêu nghĩa biển tình non đều thành băng tan ngói trút. Sự thể đã như vậy, thôi còn nói làm gì..." Những lời nói ấy đã được tất cả các tướng sĩ đồng thanh hưởng ứng. Vậy thì từ đó đến nay, vua Mạc, triều đình nhà Mạc đã làm được những gì để xóa dần cái ấn tượng đó, để giữ vững lòng tin của những người còn ở với mình, để những người trót đã ra đi còn có cớ để quay đầu trở lại? Nếu không thế thì chẳng phải chỉ có một Nguyễn Quyện ra đi mà sẽ có thể còn nhiều Nguyễn Quyện khác nữa cũng sẽ nối gót.
Nhưng chỉ nội một việc nhà vua, tiếc thay lại cả Khiêm vương Mạc Kính Điển nữa, đã tỏ ra quan trọng hóa quá mức chuyến đi công cán này của ông, cũng đủ chứng tỏ rằng họ chưa hề nghĩ đến những điều cơ bản trên đây. Hình như những thất bại dồn dập trước mắt đã làm cho ngay cả một con người có bản lĩnh như Khiêm vương cũng phải nao núng, nghĩ quẩn, tưởng đâu nếu như không có một Nguyễn Quyện ở phía bên kia thì làm gì đến nông nỗi ấy.
Cũng may cho Nguyễn Bỉnh Khiêm là sau chuyến đi công cán này nhà vua thương tình ông tuổi tác mà phải vất vả, đã chấp nhận lời thỉnh cầu khẩn thiết của ông, lại cho ông được trở về nghỉ ở chốn quê nhà.
*
Nguyễn nghiệp
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nhưng thời gian ngắn ngủi lưu lại đất Sơn Nam đã đem đến cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một việc thật là bất ngờ, tưởng như không thể xảy ra được, một việc mà cho đến mãi về sau vẫn còn làm cho ông phải xem xét như là một câu hỏi đối với lương tâm. Phải có một tầm suy nghĩ vượt lên trên những khuôn khổ bình thường thì mới dám dấn mình vào câu chuyện như vậy.
Buổi tối hôm ấy, ông đang ngồi tựa án một mình trong quán xá vắng vẻ, lòng nặng trĩu ưu tư chẳng khác gì cái bầu trời tối đen dày đặc bên ngoài cửa sổ, thì bỗng có một ông khách lạ xuất hiện.
Nhác trông nét mặt người khách, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có phần ngờ ngợ. Hình như đã gặp đâu đó một đôi lần nhưng chưa hề quen biết. Nghe điệu nói của ông ta, cứ loanh quanh
ấp úng mãi, ông lại càng thấy đáng ngại hơn.
Hẳn là có chuyện đen tối chi đây. Mãi hồi lâu ông khách mới dám nhích lại gần và bằng một giọng nói rất nhỏ nhưng rành rọt đi vào câu chuyện: - Thưa tôn ông, kẻ tiện nhân này hôm nay dám mạo muội đến hầu tôn ông, nguyên là cũng có một việc rất hệ trọng mong được thỉnh giáo tôn ông, nhưng chưa biết tôn ông có rộng lượng cho không, nên chưa dám đường đột.
- Xin mời quý ông cứ dạy.
- Trước hết xin tôn ông vui lòng nhận cho những lời vấn an thành kính của một người học trò cũ của tôn ông, quan thị lang Lương Hữu Khánh của chúng tôi(1).
à ra thế đấy! ạng ta là người của phía bên kia. Thảo nào mà cứ úp úp mở mở mãi. Bất giác Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy như dờn dợn trong người. Ta đến đây một cách hết sức bất ngờ và bí mật, mới chưa bao lâu, làm sao mà "họ" cũng biết về ta một cách chính xác đến như vậy. Mới hay màng lưới gian tế của họ Trịnh quanh vùng này lợi hại biết chừng nào. Trách sao nhiều lần quân tướng nhà Mạc đã trở tay không kịp với những cuộc ra quân chớp nhoáng. Và lần này kế hoạch phục binh cũng đã thất bại hoàn toàn. Nhưng đã đến nước này thì ta còn tránh mặt làm gì nữa. ạng chỉ đành nghiêm sắc mặt và bằng một thái độ lạnh lùng, "tấn công" ông khách lạ:
- ạng Lương đâu còn là học trò của tôi nữa. ạng ta đã là quan thị lang của các ông rồi cơ mà.
(1) Có thuyết cho rằng Phùng Khắc Khoan là người hiến kế cho Trịnh Kiểm sai người ra hỏi ý kiến Trạng Trình. Nhưng họ Phùng khi vào với nhà Lê chỉ làm ông thầy đồ. Vua Lê bắt đầu mở khoa thi năm 1554, dù Phùng có thi đỗ trong khoa thi lúc này (1556) cũng chưa thể đứng vào hàng ngũ đại thần thân tín để họ Trịnh có thể đem ra bàn bạc chuyện quốc sự cơ mật này.
Khách cũng không phải tay vừa. Một khi đã biết là không còn đất lùi thì ông ta chẳng ngần ngại đi thẳng vào vấn đề:
- Quan Thái sư chúng tôi tuy đối với nhà Mạc là địch thù nhưng riêng với tôn ông thì vẫn một lòng thành kính, coi như bậc thầy của thiên hạ vậy.
- Tôi chẳng biết quan Thái sư của các ông là ai cả.
- Quan Thái sư Lạng quốc công, Trịnh tướng quân... Chẳng may vận nước khó khăn, Trung Tông Vũ hoàng đế nhà Lê (1549-1556) băng mà không có con nối dõi. Tất nhiên là nước không thể một ngày không có vua. Các quan đại thần chúng tôi đều hết lòng lo lắng. Biết tìm đâu ra một người con cháu đích tông của họ Lê xứng đáng với ngôi trời trong lúc này? Trong khi đó thì lòng người từ lâu đã hướng về quan Thái sư là một nhân vật tài ba đảm lược, vẫn từng sánh vai rường cột quốc gia. Nhưng trước trọng trách quá lớn lao với dân với nước, quan Thái sư chúng tôi vẫn hết sức phân vân... Chính vì vậy mà quan thị lang họ Lương mới định kế với ngài xin cử người ra thỉnh cầu ý kiến tôn ông.
Phải tự kiềm chế mình hết sức, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có đủ bình tĩnh để nghe hết câu chuyện. Một cơn phẫn nộ ghê gớm chỉ muốn bùng lên như lửa đốt trong ông. Thế đấy. Hóa ra tất cả những điều dự đoán xấu nhất
của ông về Nguyễn Kim trước đây, cũng như về Trịnh Kiểm ngày nay đã hoàn toàn không sai sự thật. Họ chỉ là một phường lừa gạt, tạm thời mượn cái danh nghĩa của nhà Lê để giành giật ngôi vua của nhà Mạc cho chính bản thân họ. Chỉ vì thế mà họ đang tâm đẩy cả đất nước vào cảnh chia cắt, đẩy cả muôn dân vào vòng khói lửa chiến chinh. Thế mà bây giờ, nhà Mạc vẫn chưa trừ diệt xong, họ lại đã nỡ lòng nhen nhóm một cuộc tàn sát khác nữa. Một khi họ đã dám vứt bỏ cái danh nghĩa hờ của nhà Lê
đ i, thì cũng có nghĩa là sẽ có một bọn lừa gạt
thứ hai, thứ ba, biết đâu lại cả thứ tư, thứ năm nữa, sẽ nhặt lấy cái của bỏ rơi hiếm có đó để làm vốn đứng lên chống lại chính bản thân họ. Như thế thì cái họa Xuân Thu, Chiến Quốc này sẽ còn khốc liệt đến chừng nào và còn kéo dài đến bao giờ?
Nhưng ông cũng còn đủ sáng suốt để thông cảm cho cái trò chơi "hỏi ý kiến" này của anh học trò họ Lương. Anh ta chẳng đến nỗi kém cỏi gì mà không còn lường trước được những hậu quả tai hại của âm mưu phế lập này để can ngăn Trịnh Kiểm. Nhưng anh ta đã cân nhắc đúng sức nặng lời nói của mình trước tham vọng quá lớn của ông Thái sư họ Trịnh, vì vậy mới có cuộc cầu viện kín đáo này. ý nghĩ đó đã làm cho ông nguôi lòng một phần nào. Thì ra dù ở đâu, dù ở phía nào, những người có thiện chí, thực tâm vì dân vì nước vẫn có thể có những chỗ gặp nhau "Thiên hạ chăng tư, ấy của chung".
Vừa lúc đó thì anh lính hầu đã bưng trà vào. Hình như không để ý đến người sứ giả lạ mặt, Nguyễn Bỉnh Khiêm hất hàm về phía anh ta mà ra lệnh: - Anh hãy sửa cho ta mươi phần phẩm oản và giữ cửa chùa để sớm mai ta lên lễ Phật. à mà nhân tiện cho ta nhắn các ông sãi, năm nay không được mùa là vì giống má chẳng ra gì, nên tìm lấy giống cũ mà trồng.
ạng khách đã hiểu ý, vội vàng cáo từ ra về. Cái bóng dáng nhỏ bé của ông ta mất hút vào trong màn đêm mù mịt.
XI
"Có ai biết được lòng tri kỷ"
Tuy đã trở về nơi am, quán cũ, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu có được nghỉ ngơi. Những biến cố mới của thời cuộc ngày càng dồn dập, ngày càng phức tạp khó khăn vẫn cứ dội tới, không để cho tâm trí ông được yên phút nào.
Câu chuyện gặp gỡ bất ngờ giữa ông với viên sứ giả của họ Trịnh mới hôm nào ở trấn Sơn Nam vẫn chưa thể quên lãng đi được. ạng có hay tin Trịnh Kiểm cuối cùng đã tạm kiềm chế được tham vọng trước mắt của mình để nghe theo những lý lẽ sáng suốt, hợp thời hơn. Tất nhiên không phải vì lợi ích của nhà Lê. Càng không phải vì vận mệnh của dân. Chính là vì lợi ích sâu xa và lâu dài của con cháu ô ng ta đã buộc ông ta phải mở mắt. ạng ta
đã sai tìm được - tất nhiên là chẳng phải khó
khăn gì - một người cháu bốn đời của Lam quốc công Lê Trừ là Lê Duy Bang ở hương Bố Vệ để lập lên làm vua.
Khỏi phải nói, mọi thứ nghi lễ đều được ông ta cho tiến hành một cách hết sức trọng thể, đúng theo quy chế của các triều đại chính thống trong sử sách, cứ như chẳng có chuyện uẩn khúc gì đằng sau cả. ạng vua nằm xuống đã được dâng tôn hiệu Vũ hoàng đế, miếu hiệu Trung Tông. ạng vua mới lên ngôi đã đổi niên hiệu năm sau, Đinh Tỵ, làm năm Thiên Hựu thứ nhất (1557) và xuống chiếu đại xá. Nhân dịp này một số đại thần có công hoặc chẳng có công cũng được thăng quan, thăng tước. Các khoa thi lại tiếp tục mở đều.
Có thể nói mọi việc đã diễn ra đúng như ý ông. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm không vì vậy mà thấy thanh thản trong lòng. Như thế là sau việc ông đồng tình để cho Lương Hữu Khánh và Phùng Khắc Khoan ra đi, lại một lần nữa ông dấn mình vào những hành động phi thường mà chỉ riêng ông mới hiểu được động cơ và lý lẽ.
Nhớ lại hồi nào, trong buổi khai trương lớp học, đám môn sinh đông đảo đã đồng thanh tôn ông làm thầy "thầy thiên hạ". Bản thân ông có bao giờ dám nghĩ tới điều ấy. Có ngờ đâu, đến bây giờ, cái nhiệm vụ đó lại tự nó đặt lên vai ông, mà đặt vào đúng một hoàn cảnh éo le đến thế. Mới hay cái nghĩa "Thì tai! Thì tai!" ở đời thật biến hóa vô lường!
Đã có nhiều lúc ông phải tự vấn lương tâm
về việc làm này. ạng không thể gợn lên một chút hổ thẹn nào hết. Tất cả đều chỉ xuất phát từ một tấm lòng lo nước thương dân chân thật mà thôi. Nhưng còn công luận, còn hậu thế? Người ta sẽ nghĩ ra sao? ại, cái đó đâu phải là điều quan trọng nhất. "Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân", người quân tử chỉ biết đòi hỏi ở mình chăm lo đến nghĩa vụ của mình, há lại như bọn tiểu nhân chỉ cầu chuốc lấy tiếng khen, còn nghĩa vụ thì chẳng kể vào đâu hết.
*
Những nỗi băn khoăn trên đây còn chưa kịp tiêu tan trong ký ức Nguyễn Bỉnh Khiêm thì bỗng lại có sứ giả của nhà vua tới. Quả thật là từ ít lâu nay ông đã bắt đầu thấy ngán về bóng dáng của ngọn cờ sứ ấy rồi. Còn mấy
đỗi nữa đâu, ông sẽ tới tuổi thượng thọ bảy mươi. ạng cần được nghỉ ngơi lắm.
Nhưng mấy cha con ông còn chưa kịp khăn áo chỉnh tề thì vị sứ giả đã bước vào nhà với một dáng điệu hồ hởi ra mặt. ạng ta mừng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được nhà vua gia phong chức tước, vì đã có công lao trong chuyến đi công cán vừa qua, nhất là đã có thành công lớn trong chuyến đi Sơn Nam năm trước. Cả hai anh em Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn đã do bức thư khuyên giải của ông mà trở về với nhà Mạc. Nhà vua cùng Khiêm vương vui mừng khôn xiết, đã phong cho Nguyễn Quyện tước Văn Phái hầu và Nguyễn Miễn tước Phù Hưng hầu, lại đem con gái tôn thất gả cho và giao giữ binh quyền như cũ. Chính Quyện đã lại lập công đầu, đánh tan năm vạn quân Trịnh ở vùng Giao Thủy trấn Sơn Nam, giữa lúc quân Mạc đang có cơ bị núng thế.
Hào hứng quá, vị sứ giả còn thao thao kể lại trận đánh một cách tỉ mỉ, cứ như là đích thân ông ta đã được chứng kiến vậy.
Dường như đã thật hả hê, ông ta mới đi đến kết luận: - Thánh thượng cùng triều thần đều hết sức vui mừng về chiến thắng thần diệu này. Ai cũng nói là công đầu phải thuộc về quan lớn đã dụ được dũng tướng Nguyễn Quyện trở về. Riêng kẻ bất tài này xin được tỏ lời bái phục quan trạng đã đào tạo cho nước nhà một người học trò kỳ tài đến như vậy. Thật là "dũng thả tri phương"(1)...
Nhưng tất cả cái hào hứng sôi nổi của ông khách vẫn chẳng làm giãn nở được những nét tư lự vẫn hằn sâu trên vầng trán Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dù sao thì ông cũng đã làm tròn sứ mạng khó khăn mà nhà vua giao phó. Hai anh em Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn, hai người học trò của ông, cuối cùng cũng đã quay về với ông, quay về với đạo nghĩa vua tôi, thầy trò. Nhưng tình hình đại cục thì có thay đổi gì đâu. Chém giết vẫn hoàn chém giết! Mà sao cả cái triều đình đông đảo bá quan văn võ ấy lại hình như chỉ biết trông chờ vào một tay dũng tướng?
Mãi sau khi cả hai bên chủ khách đã cùng tiến hành xong nghi thức đón nhận sắc chỉ của nhà vua, vị sứ giả chừng như mới sực nhớ ra, báo cho Nguyễn Bỉnh Khiêm biết cái tin Lê Bá Ly cùng Nguyễn Thiến đã mất ở bên địch.
Tin đó thực ra chẳng đột ngột gì với ông. Từ lâu ông đã đoán trước được cái kết cục ấy của hai ông già. Bá Ly lúc này đã ngoại tám mươi, còn Nguyễn Thiến cũng xấp xỉ tuổi đó rồi còn gì. Nhưng mà sao ông khỏi xúc động bùi ngùi được!
Bá Ly thì đã đành rồi. Dù sao quê ông ta cũng là ở trong ấy, vùng huyện Đông Sơn,
Thanh Hoa. Con cháu họ hàng theo về khá đông. Đất Thanh Trì ngoài này chỉ là nơi trú ngụ trong thời làm quan với nhà Mạc.
Nhưng còn ông bạn Nguyễn Thiến? Thế là ông vĩnh viễn nằm xuống nơi đất khách quê người. Biết bao giờ đất nước mới bình yên, nhất thống để cho nắm xương tàn của ông lại được trở về với cái làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, nơi chôn nhau cắt rốn của ông, mà sinh thời khi còn được ở bên nhau, ông bạn vẫn thường nhắc tới với tất cả niềm yêu mến và tự hào.
Cáo chết vẫn quay đầu về núi. Có lẽ vì thế mà trước lúc lâm chung ông đã trăng trối cho hai người con trai trở về đất Mạc để không còn bao giờ phải xa lìa quê hương nữa, mặc dầu như vậy thì trước nấm mồ ông sẽ phải hương lạnh khói tàn.
Chỉ có một điều làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm nguôi lòng chút ít là đã gửi kịp một bức thư tâm tình cho bạn. Bức thư chắc cũng có đủ thì giờ đến được tay ông trước khi ông nhắm mắt. Lẽ nào ông bạn lại không hiểu cho lòng ô ng...Đêm hôm ấy, khi vị sứ giả đã yên giấc,
Nguyễn Bỉnh Khiêm mới lặng lẽ trở vào buồng riêng đốt mấy nén hương thơm để viếng vong hồn ông bạn. Và cứ thế, cho đến sáng, ông vẫn một mình ngồi tựa cột trên ổ rơm, âm thầm ôn lại những vần thơ hai người đã từng xướng họa bên nhau như để khơi lại đống tro tàn của một thời kỳ đã qua chẳng còn bao giờ trở lại.
*
Vị sứ giả của nhà vua vừa mới ra đi chưa được bao lâu thì một vị sứ giả khác lại đã tới. Nhưng lần này thì không phải người của nhà Mạc, mà lại là con người bí mật đã từng lén gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm hồi nào ở Sơn Nam.
Không hiểu sao con người ấy đã để lại cho ông những ấn tượng khó chịu đến như thế. Chỉ vì tâm lý rất ghét bọn thuyết khách xảo quyệt trong truyện ngày xưa? Không phải thế. ạng ta có "thuyết" gì đâu. Nhưng hình như mỗi lần ông ta đến lại đặt ra cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một vấn đề của lương tâm. "ám thất thùy năng úy tử tri", trong ngôi nhà tối thì ra cũng có bốn người biết cơ đấy. Có trời biết, đất biết, ta biết và cả con người lạ lùng ấy biết nữa chứ. Nhưng ta có làm gì trái với lương tâm mà phải sợ, phải lánh mặt ông ta. Rất bình tĩnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động hỏi trước:
- Quan Thái sư của ông hẳn lại có việc gì nên mới hạ cố đến tôi?
- Thưa tôn ông, lần này không phải là việc của quan Thái sư chúng tôi, mà là việc của em vợ ngài. Hẳn là tôn ông thừa biết Chiêu huân tĩnh công(1)...
Bất giác Nguyễn Bỉnh Khiêm ném một cái nhìn khinh bỉ về phía ông khách lạ, cái dáng người nhỏ loắt choắt, bộ mặt khô khan với cặp mắt sâu quá ư là lanh lợi mà giảo hoạt. Chẳng biết là Trịnh Kiểm vứt bỏ ông ta hay là chính ông ta thay đổi chủ? Không đợi ông ta nói dứt câu, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp luôn:
- Vậy ra là việc của Đoan quận công Nguyễn Hoàng? Tôi cứ tưởng Thái sư với quận công, anh em cùng chia sẻ binh quyền tước lộc, dưới vòm trời của Nam triều các ông thật là thiên hạ đệ nhất gia, còn có gì mà phải phiền đến ông lặn lội tới đây?
Câu nói dụng ý quả đã làm cho ông sứ giả lạ mặt hoàn toàn kinh ngạc. "Thì ra cái ông già quê mùa ở đất Vĩnh Lại hẻo lánh này đã biết hết mọi chuyện rồi sao? ạng ấy đã biết việc Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết? Nếu không thì sao trong hai người con trai của Chiêu huân tĩnh công, ông già chỉ hỏi tới đích danh có mình Nguyễn Hoàng? Và câu nói tiếp theo thì rõ ràng bao hàm ý nghĩa mỉa mai khá cay độc?" Thực ra thì ông già Vĩnh Lại còn biết nhiều hơn thế nữa cơ. ạng biết rõ tim đen của Trịnh Kiểm ngay khi mới được Nguyễn Kim nhận về làm rể. Ngay từ đó Trịnh Kiểm đã nuôi mộng đoạt quyền về tay mình. Chả thế mà khi Nguyễn Kim bị nạn thì mọi quyền bính đã lọt vào tay ông ta, chứ không phải vào tay hai người con của vị công thần khởi xướng công cuộc trung hưng ngày nay. Trái lại, từ đó chính hai người con này đã bị Trịnh Kiểm ngầm coi như là những địch thủ nguy hiểm, khó có thể cùng chung hưởng lộc nước được.
Đã thế tuổi ông ta mỗi ngày một cao, sức ông ta mỗi ngày một yếu. Lại phải luôn luôn tham gia trận mạc, xông pha nơi lam sơn chướng khí, chẳng biết sống chết lúc nào. Đã đến lúc ông ta nghĩ đến chuyện giao phó lại quyền hành cho con. Khốn một nỗi là cũng vì cái viễn cảnh nắm quyền hành này mà hai người con của ông ta, Trịnh Cối và Trịnh Tùng ngày càng tỏ ra hiềm khích lẫn nhau, tìm cách hãm hại lẫn nhau. Vậy thì cái nguy cơ hai anh em họ Nguyễn chẳng còn là điều xa xôi gì. Phải kịp thời trừ ngay hậu họa. Nhưng bẻ đũa không nên bẻ cả nắm. Vì thế mà Nguyễn Uông, anh trai trưởng đã "đi" trước.
Tất nhiên là Nguyễn Hoàng không ngu dại gì mà bó tay ngồi chờ tới lượt mình. Hẳn là vì vậy nên mới có chuyến thăm bất ngờ này của ô ng khách lạ...- Thế ra tôn ông cũng đã biết cả mọi việc
rồi. - ạng khách tiếp lời. - Thế gian thường đồn đại về ông, trên thông việc trời, dưới tường việc đất, thấu chuyện đời xưa, tỏ sự đời sau, quả thật không sai. Nếu vậy thì hà tất phải rườm tai tôn ông. Chỉ mong tôn ông thông cảm cho mọi nỗi lo lắng khó xử của Đoan quận công chúng tôi trong tình cảnh này mà mở lượng trời bể bày kế cho được chu toàn.
- Tôi thường nghe Đoan quận công cũng là bậc cao minh, hùng lược, thế mà chuyện anh em trong nhà há lại nhờ đến người ngoài xa lạ phân xử hay sao? Tuy nói thế nhưng trong thâm tâm Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không dễ gì mà giải đáp được ngay câu hỏi hóc búa đến như vậy. Nếu nó chỉ liên quan đến lợi ích của hai con người ấy thôi thì hà tất phải bận tâm làm gì. Chẳng qua đó cũng chỉ là câu chuyện tranh ăn giữa giống sài lang với nhau mà thôi. Nhưng đây lại là những con người có quyền hành và thế lực. Thậm chí rất có quyền hành và thế lực. Như vậy thì cuộc tranh giành sẽ không dừng lại ở mức riêng từng người được nữa. Mà cuối cùng thì tai vạ vẫn sẽ lại đổ lên đầu người dân cả thôi. Cái chính là phải làm thế nào để tránh được cái họa đó.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thừa biết, từ mấy năm nay người dân vùng Thanh, Nghệ trong ấy cũng chẳng được yên ổn gì hơn người dân nhà Mạc ở ngoài này. Mỗi lần phản công của quân Mạc vào đó đối với họ lại là một lần lưu ly nhất sở, nhà mất, ruộng hoang. Còn mỗi lần quân Trịnh tấn công ra ngoài này thì lại là một lần bắt phu vét lính, thuế nặng sưu cao. Gia dĩ mấy năm nay lại thiên tai dồn dập. Chỉ riêng vụ úng lụt khủng khiếp tháng mười năm Đinh Tỵ (1557) mưa lớn hàng mấy tháng trời, cũng đủ làm cho hàng triệu dân đen chết đói đầy đường.
Thế mà nào ai đã nghĩ đến chuyện nuôi dưỡng sức dân một cách bền vững lâu dài đâu. Người ta chỉ bày trò chẩn cấp nhỏ giọt để xoa dịu lòng dân. Rồi vua lại xuống chiếu đổi niên hiệu nữa chứ. Làm như sắp có những sự đổi mới tốt đẹp vậy. Trong khi đó thì họ đã có trong tay một vùng Thuận, Quảng mênh mông đất rộng người thưa, phì nhiêu màu mỡ. Sao họ không nghĩ đến chuyện đem người vào đó mà khai phá làm ăn để có thêm của cải, đỡ phần đóng góp cho dân?
ý nghĩ đó bỗng lóe lên như một tia sáng bất ngờ trong tâm trí Nguyễn Bỉnh Khiêm. à, phải rồi, tại sao Nguyễn Hoàng không thể đảm nhận được việc này nhỉ. Vả lại đối với ông ta lúc này thì đó lại là cái kế toàn thân êm đẹp duy nhất. Mà về lâu dài thì biết đâu một dải Hoành Sơn hiểm trở kia lại chẳng là cái kế dung thân cho con cháu muôn đời. Còn đối với họ Trịnh thì còn có giải pháp nào khôn khéo hơn để tạm thời đẩy xa được một địch thủ lợi hại, mà chẳng phải mang tiếng anh em trong nhà sát hại lẫn nhau. Chỉ một cái mạng Nguyễn Uông cũng đã đủ làm cho ông ta phải phiền lòng trước dư luận rồi.
Như thế thì trước mắt cũng có thể cách ly được hai con hổ đói ham mồi nhất. Còn bọn chúng thì chắc chắn chưa thể tính chuyện cắn nhau ngay được. Bởi vì chúng vẫn còn có kẻ thù chung là họ Mạc mà chúng đều muốn thanh toán cho nhanh. Vả lại cái danh nghĩa
hờ của nhà Lê vẫn còn cần thiết cho cả hai bên để tính chuyện mai sau...
Thế là hôm sau vị sứ giả thầm lén đã sung sướng ra về với một pho bảo bối thần diệu không ngờ: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân"...
Quả nhiên sau đó ít lâu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được tin Thái sư Trịnh Kiểm tâu với vua Lê xin cho Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa với quyền hạn rất lớn: "Phàm công việc của địa phương, không cứ lớn nhỏ, và các ngạch thuế, nhất thiết giao cho, hàng năm đến kỳ thu nộp" và cùng với viên trấn thủ Quảng Nam Trấn quận công Bùi Tá Hán giúp đỡ lẫn nhau phòng giữ bờ cõi. Thế rồi chẳng bao lâu đất Quảng Nam cũng giao cho Nguyễn Hoàng nốt. Tình nghĩa anh em rể đối với nhau đến thế là "tột bậc" rồi còn gì!
Cái tin "tốt đẹp" ấy không thể không làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm mỉm cười một cách chua chát.
*
May sao cuộc đời ở chốn am mây vẫn còn có thể dành cho Nguyễn Bỉnh Khiêm được những ngày vui tạm gọi là trọn vẹn.
Một cuộc viếng thăm mà ông hằng mong ước, cuộc viếng thăm của người học trò tin yêu nhất, đáng nể vì nhất, Nguyễn Dữ.
Anh ta không hề mang đến cho ông một tin tức chiến sự hay chính sự nào, ông đã quá đau đầu nhức óc về những thứ đó rồi. Thật là nhẹ nhõm, món quà mà anh ta mang đến lại là một bản thảo văn chương. ại, bài luận văn chương trong lúc này, mấy ai đã có được cái may mắn ấy nhỉ? Nâng tập giấy trong tay, nhìn những hàng chữ sắc nét tài hoa mà Nguyễn Bỉnh Khiêm cứ thấy đôi mắt mình rưng rưng lệ.
Nhưng mà là câu chuyện gì thế này? Truyền kỳ mạn lục à? Lại truyện truyền kỳ? Từ ít lâu nay cái loại truyện này ra đời sao mà nhiều đến thế không biết. ấy chính vì vậy mà người ta lại rất khó thành công, rất khó biết mình viết hay hay dở. Chỉ cần làng nhàng một chút là có bao nhiêu người xem, bao nhiêu người truyền tụng. Nhưng ấy là nói chung thế thôi, chứ ở con người này thì không có chuyện như thế được.
Ngay từ hồi anh ta mới treo ấn từ quan, ta đã đoán ngay ra con đường trước thư lập ngôn của anh ta rồi. Hình như trời sinh anh ta ra để làm việc đó. Con người mới thâm trầm, kín đáo làm sao! Vành khăn nhiễu thâm quá rộng như muốn che bớt vầng trán cao đĩnh đạc. Đôi lông mày rậm giấu kín cặp mắt quá sắc sảo càng làm tăng thêm vẻ mặt trầm tư. Cái miệng chỉ họa hoằn mới nhếch một nụ cười, như muốn khép kín bên trong một thế giới suy tưởng, luôn
luôn được gạn lọc đến tinh chất trước khi thốt ra thành lời.
Nhưng có ai ngờ đâu một con người tưởng như khép kín, tưởng như sống cách biệt với cõi đời ấy lại chú ý đến tất cả, nhìn tất cả và nghiền ngẫm tất cả mọi sự xung quanh mình. Con người ấy trước thư lập ngôn không phải để trở thành một "nhà", mà là để gửi gắm với tất cả người đời.
Suốt mấy ngày liền, ngoài những bữa rượu suông với món niềng niễng, đòng đong quê mùa mà chỉ riêng hai người mới biết thưởng thức, anh ta chỉ thẩn thơ thăm thú những nơi cảnh cũ người xưa, am Bạch Vân, quán Trung Tân, sông Tuyết, chợ Hàn... Mà sao anh ta lại cứ đứng ngẩn ra mà trầm tư trước bài văn bia quán Trung Tân với bài ký về chiếc khánh đá của ta bên chùa Trang Hoa vậy nhỉ? Mấy lời lẽ quê mùa ấy thì có gì là mới mẻ, cao siêu đối với anh ta? Có trời mà biết được anh ta đang nhào nặn những gì trong lòng, trước những kỷ vật thô sơ ấy.
Chỉ có những buổi tối về, khi chỉ còn hai thầy trò thì anh ta mới cởi mở đôi chút để cùng bình luận về chính bản thân của anh ta. Anh lại còn khiêm tốn yêu cầu ta hiệu đính nữa cơ chứ. Chẳng biết rằng ta sẽ có thể giúp anh ta được gì?
Thực tình mà nói, ta chỉ còn biết vui mừng và thán phục mà thôi. Một cây bút tài ba đến thế là cùng! Trong một tác phẩm mà gần như đủ thể văn, tản văn có, biền văn có, rồi thơ, phú, cả đến cái thể tứ lục khó khăn là thế mà vẫn cứ đâu ra đấy, chắc nịch mà suôn sẻ, già dặn mà bay bướm, tung hoành mà vẫn chặt chịa sáng sủa lạ thường. Thật khó có thể tưởng một cây bút nào lại bao hàm được nhiều cái ư u việt đến như vậy.Mà hình như từng lời, từng ý trong từng câu
chuyện đều làm ta phải đến kinh ngạc. Chẳng biết là anh ta định nói chuyện ma quỷ thần tiên hay nói chuyện người đời, định nói chuyện đời xưa hay nói chuyện đời nay nữa. Và những lời bình mới xác đáng, mới nghiêm liệt làm sao. Đến như mấy câu thơ còn đề trên vách đá của lão tiều trong Truyện đối đáp của người tiều phu núi Nư thì thật là đáng kinh người.
Kỳ La cửa biển hồn thơ dứt
Cao Vọng đầu non dạ khách buồn.
Vẫn biết là câu chuyện chỉ nói về nhà Hồ, Kỳ La và Cao Vọng chẳng phải là nơi cha con Hồ Quý Ly bị bắt hay sao. Nhưng sao đọc lên ta cứ có cảm nghĩ như đây là những câu sấm ký của anh ta ngụ ý về số phận của nhà Mạc trong tương lai...Nguyễn Dữ ra đi đã mấy hôm rồi mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn bâng khuâng ngơ ngẩn vào ra như vừa mất đi một cái gì quý giá vô cùng.
Anh bạn đã ra đi. Chẳng biết còn dịp nào gặp lại trong cái thời buổi loạn ly này. Anh ra đi, mang theo cả một mối tình tri âm, tri kỷ cả đời người đã mấy ai gặp được đến hai lần.
Anh bạn đã ra đi. Có biết đâu rằng anh đã cuốn theo đi mất cả một chút hy vọng mong manh còn sót lại trong lòng ông già Nguyễn Bỉnh Khiêm này. Chẳng lẽ rồi từ đây, đối với cái vương triều mà ông đã từng phục vụ đến ba đời vua này, ông cũng chỉ còn giữ lại được một mối nghĩa tình vẫn thủy chung như nhất mà thôi ư. Ngoài cái đó ra thì chẳng còn gì hết!
XII
"Rất nhân sinh bảy tám mươi"
Cũng như mấy dịp trước, lần về nghỉ ở quê nhà này chưa được bao lâu thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại phải về triều. Đó là vào khoảng tháng giêng năm Nhâm Tuất (1562), vua Mạc Phúc Nguyên mới băng tháng trước và vua Mạc Mậu Hợp lên ngôi. Lúc này ông đã 72 tuổi.
Cuộc đi lần này chẳng để lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một ấn tượng mới mẻ nào hết. Nhà vua mới chưa đầy năm, còn phải ẵm ngửa khi làm lễ đăng quang và ra coi chầu. Một ông chú khác của nhà vua được cử làm phụ chính cùng với Khiêm vương Mạc Kính Điển, lúc này
đã được gia phong là Khiêm thái vương và đã phải chuyên chú vào việc binh nhung. Đó là œ ng vương Mạc Đôn Nhượng.Trong số những hoàng tử của vua Mạc
Đăng Doanh, sau Mạc Kính Điển, Đôn Nhượng cũng là người có ít nhiều tài cán. Nhưng vì ít tham dự việc nước nên từ lâu ông ta đã có thói quen thích nghỉ ngơi yên tĩnh ở chốn Dương Kinh xa cách đô thành. Ngay sau khi đã nắm quyền ông ta vẫn cứ về đó luôn, việc triều đình vì thế không được siêng năng lắm, nhất là khi tuổi tác ông ngày càng cao. Vì vậy mà tín nhiệm của các triều thần đối với ông cũng có phần hạn chế. Có lúc ông ta đã nghĩ đến chuyện xin từ chức, nhưng không được.
Công bằng mà nói thì buổi đầu ông cũng đã cùng Khiêm thái vương lo toan chấn chỉnh một số công việc, nhất là việc xếp đặt lại quân ngũ đang có phần xộc xệch, sau những cuộc thử thách lớn vừa qua với quân Trịnh.
Mặc dầu vậy, mọi sự vẫn chẳng được đóng đả hơn lên chút nào. Trái lại, nề nếp sinh hoạt
của triều đình chỉ cứ theo đà mà ngày một rời rã thêm, cứ như là phiên chợ về chiều vậy.
Sống giữa cảnh tượng ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ thấy mình nhớ nhà, nhớ cái am Bạch Vân, cái quán Trung Tân thật da diết. Công việc thì cũng chẳng có gì. Người ta cố lưu ông lại chủ yếu chỉ vì cái danh Trạng Trình của ông mà thôi. Còn ông cũng giữ phận một "cụ thần"(1), chẳng tha thiết gì hết. Có lẽ chỉ việc thăm viếng bạn bè là còn mang lại cho ông đôi chút niềm vui.
Rất nhân sinh bảy tám mươi Kẻ còn bạn cũ mấy lăm người
Thì ra đã đến cái tuổi mà mỗi lần được gặp nhau người ta lại phải điểm mặt ai còn, ai khuất!
Cũng may cho ông là chỉ một năm sau, chiếu cố đến công lao và tuổi tác, nhà vua chấp nhận cho ông được về trí sĩ, mà lần này là về hẳn.
Để tỏ rõ thái độ của triều đình trọng đãi kẻ hiền tài và tri ân bậc huân thần cố cựu, nhà vua đã xuống chỉ gia phong chức tước cho ông và cho mấy người con trai được ấm phong để trọng dụng. Việc này không phải là không làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm xúc động. Trong tờ biểu tạ ân dâng lên nhà vua ông đã chân thành tỏ ý lo ngại mấy đứa con ông, chẳng biết có được giỏi giang, cần mẫn, xứng đáng với lòng tin cậy của triều đình.
Cuộc chia tay, có lẽ là lần chót, với những người bạn còn ở lại kinh đô quả thật là cảm động. Làm sao ông chẳng hiểu được lòng họ. Dù có tiếp tục làm quan thì họ cũng có vui thú gì đâu. Không phải là không có nhiều người muốn xin về hưu như ông. Nhưng biết làm thế nào. Non nước này chẳng lẽ để cho ai. Thôi thì đành chúc nhau hãy gắng gỏi hơn nữa để giúp đỡ nhà vua cho tròn nghĩa vụ.
Riêng đối với ông Giáp Hải, Nguyễn Bỉnh Khiêm dường như chẳng muốn rời tay. Tuy cảnh mỗi người có khác nhau, nhưng tấm lòng lo âu thì chỉ là một. Tiếc thay, một con người tài năng đức độ như thế mà rút cục vẫn chẳng làm nên được trò trống gì. Đó đâu phải là lỗi tại ông bạn. Chẳng qua là cái thời thế nó xui nên như vậy. Trong lúc chia ly đáng buồn này, ông chỉ còn biết tặng bạn mấy vần thơ man mác như tấm lòng man mác của ông:
Tuổi trời tính đốt bảy mươi ba Thẹn nỗi treo xe đã xế tà Chẳng sức ruổi rong đành lẽ vậy, Không nề vinh, tiện khá cầu a? Mong ai việc nước ra tay giúp, Cười tớ am mây hưởng tuổi già. Sao Thọ cùng trông tua sáng tỏ
Khắp nơi rạng rỡ núi sông ta.
Và ông cũng thầm cảm ơn về những lời chúc tụng, e có phần quá đáng, nhưng thật tình thông cảm của ông bạn, trong lúc không phải là không có người chê trách ông là cố chấp:
Trù hoạch từng nghe hào kiệt Hán Tiên sinh lui tới đẹp đôi bề.
...
Chon von đức vọng lâu dài mãi Vằng vặc soi đường Bắc Đẩu kia.
Con đò xuôi dòng đã trôi xa. Bóng dáng những người bạn đi tiễn cũng khuất nẻo từ lâu rồi, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không sao rời mắt khỏi chốn kinh thành vẫn đang ẩn hiện nơi kia, rực rỡ dưới ánh hồng trong suốt của buổi sáng mùa xuân. Có lẽ chưa bao giờ ông thấy cố đô Thăng Long đẹp đẽ, hùng vĩ như buổi hôm nay. Nó vẫn như đang ấp ủ trong lòng một sức mạnh tiềm tàng vĩ đại, sức mạnh của một con rồng khổng lồ. Con rồng ấy hiện nay vẫn còn đang nằm lỳ ra đó như một thế lực vô hình trói buộc. Nhưng chưa biết lúc nào nó sẽ cựa mình, sẽ vùng dậy, cuồn cuộn bay lên không có sức nào cản nổi. Kìa, hãy thử nhìn tỏa rộng ra đôi chút, hai dãy núi Tam Đảo, Ba Vì chất ngất một màu xanh thẳm đang dàn ra như chầu về nó, nâng nó lên cao, uy nghiêm, đường bệ...
Thế mà giờ đây ta phải vĩnh biệt nơi cố đô anh linh ấy, vĩnh biệt cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay. Chỉ với ý nghĩ đó thôi, trên đôi mắt khô của ông già bỗng trào ra hai hàng lệ tưởng đến không cầm nổi nữa.
*
Quả thật cũng đã đến lúc Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy thấm mệt.
Tóc đã thưa, răng đã mòn, Việc nhà đã phó mặc dâu con. Bàn cờ, cuộc rượu, vầy hoa trúc, Bó củi, cần câu, trốn nước non.
Chung quanh ông, mọi chốn dường như cũng vắng vẻ đi cả. Trong am Bạch Vân suốt ngày quanh quẩn vẫn có mình ông với mụ già chung thủy. Mụ thì vẫn suốt đời tần tảo vì ông. Vẫn sớm tối chén nước chè mai tỏa hương thanh đạm, rất hợp với tính ông. Vẫn ngày hai bữa canh cua rốc nấu với rau rút và mấy lát khoai sọ do chính tay mụ vun trồng, hái lượm. Vẫn bốn mùa đắp đổi với mấy bộ quần áo sồi dấn già đỏ quạch do chính tay mụ khâu vá... Nhưng người mụ thì cứ mỗi ngày một khô quắt như con mèo già. Có nhiều lúc nhìn mụ tiều tụy quá mà ông muốn khóc.
Con trai ông thì đã đi vãn cả rồi, đứa thì ra làm quan, đứa thì tìm đi nơi khác làm ăn. Con gái thì đã trở thành dâu con nhà người. Ngôi trường cũ cũng đành bỏ vắng. Còn hơi sức đâu mà dạy dỗ con người.
Ra khỏi nhà thì chỉ toàn gặp những bộ mặt lặng lẽ, nặng trĩu lo âu, sợ hãi, những căn nhà xơ xác, tiêu điều. Thỉnh thoảng làng xóm lại xôn xao lên vì một đợt bắt phu bắt lính, một vụ tróc thuế thu sưu, hay một đợt người tỵ nạn từ những chiến trường xa gần giạt tới.
Làm bạn bên ông lúc này có lẽ chỉ còn cây gậy trúc, lặng lẽ mà chung tình. Buổi sáng cây gậy vẫn lẽo đẽo theo ông bên những luống rau, khóm trúc, lượm chút hương bay để đưa vào bữa rượu ban trưa. Tối tối lại cùng ông la đà bên bến nước, chờ bóng trăng lên mang theo tới những làn gió mặn nồng của biển cả. Cây gậy vẫn nâng giấc ông lúc ốm đau, coi giấc ngủ cho ông những đêm đông giá buốt.
Cây gậy mới quý làm sao. Những đốt nó cứng thẳng. Lòng nó hư không, thông suốt như chính lòng ông vậy. Biết đâu lại chẳng có ngày nó biến thành rồng để đưa ông lên cõi tiên, sống một cuộc đời đầy lạc thú thênh thênh, không chút lo phiền.
Chao ôi, lúc này ông mới thấy thèm khát một cái nhàn, một cái nhàn với ý nghĩa tầm thường thô thiển nhất, chẳng cần triết lý cao siêu. Một sự nghỉ ngơi hoàn toàn về tâm hồn và thể xác, để chờ ngày được về với tổ tiên.
Cũng may mà trong nhà ông còn một thứ gia sản hết sức quý báu. Đó là kho đồ thư khá phong phú được tích lũy từ mấy đời nay. Ngoài những lúc khề khà chén rượu, có thể nói ông đã lao vào đọc sách một cách không biết mệt mỏi. Đọc để khuây khỏa, để tiêu sầu. Đọc đấy mà nhiều khi tâm thần bất tại, chẳng cần suy nghĩ gì hết. ích chi điều đó nhỉ. Đã đến lúc ông phải thừa nhận rằng mình chẳng còn thi thố được gì với đời nữa rồi "Hào kiệt chi kinh luân hữu hội". Những kẻ hào kiệt muốn kinh luân cũng phải chờ vận hội. Cái vận hội đó chắc chắn là sẽ không đến được với ông nữa rồi. Nhưng có sao đâu. Đó chỉ là phận của riêng ông. Còn trời đất, còn non nước kia thì vẫn chuyển vần, bĩ cực tất sẽ thái lai:
Chín mươi thì kể xuân đã muộn Xuân ấy qua thì xuân khác còn.
Hà tất phải lo cho những thế hệ mai sau.
Đã có lần Nguyễn Bỉnh Khiêm tự bắt gặp mình đang mơ màng lẩm nhẩm một đoạn văn ngôn trong quẻ Bát Thuần Càn sách Chu Dịch.
Tiểm long vật dụng Dương khí tiềm tàng Hiện long tại điền Thiên hạ văn minh...(1) mà chẳng biết vì sao. Hóa ra là hồi còn niên thiếu, đã nhiều lần trong lúc đùa vui, bạn bè thường đem nội dung những câu sách bí hiểm này mà vận dụng vào số phận của ông. Hồi ấy ông đã kịch liệt phản đối cái trò chơi nhảm nhí này. ạng càng khinh bỉ những thứ bói toán càn xiên.
Thế mà giờ đây, chẳng phải chỉ đôi ba lần, ng đã cùng với anh học trò còn gần gũi bênng nhất là Đinh Thì Trung đem những quẻ
trong Kinh Dịch ra bói, tất nhiên là không phải bói xem tiền vận hậu vận của bản thân ông - đã đến lúc này thì ông còn tiền đồ gì nữa - mà
để bói xem cuộc vần xoay của vận nước. ại!
Đến cả cuốn sách triết lý cao siêu mà suốt đời ng hằng nghiền ngẫm giờ đây trong tâm tríng chỉ còn là một cuốn "phệ thư" (sách bói
toán) tầm thường như lối nghĩ của người thời cổ. Thật không thể ngờ tới được.
Mà nào chỉ có thế. ạng còn làm ra cả những bài thơ sấm ký nữa chứ. Chả là đã có một thời sao người ta hay đồn đại những thứ
(1) Phan Bội Châu trong cuốn Chu Dịch của ông đã diễn ra quốc ngữ là: Rồng ngầm chớ đụng, là tượng hào Sơ Khí dương ở dưới, rồng chửa mây mưa.
Rổng ra ở ruộng, hào Nhị bây giờ, Rõ ràng văn hóa, khắp cả gần xa...
gọi là sấm ký đến thế. Chỉ vì cái thứ sấm ký này mà bỗng dưng Trần Cao thấy mình có mệnh làm vua, nên mới gây loạn. Nhưng cái "họa" Trần Cao chưa trừ diệt xong thì từ đâu lại thấy mọc ra một câu sấm khác: "Trần hữu nhất nhân, vi thiên hạ quân. Thỏ đầu hổ vĩ, thế thế an dân"(1).
Nhưng lần này người con họ Trần có số làm vua ấy lại không phải là Trần Cao, mà là Trần Chân. Thế là anh này liền bị đem ra chém đầu, giữa lúc anh ta đang cậy có công giúp vua Lê Chiêu Tông đánh dẹp một số phe phái khác mà nắm lấy quyền cao chức trọng, lấn át cả các đại thần... Chẳng qua đó cũng chỉ là câu chuyện các phe phái hại nhau mà thôi.
Bẵng đi một dạo, thế rồi gần đây câu chuyện sấm ký bỗng dưng được khuấy lên. Có điều là sấm ký không vận vào một nhân vật này hay nhân vật khác nữa, mà lại ám chỉ cả một sự kiện thời sự, hoặc dự đoán cả một tương lai của đất nước.
Thoạt đầu người ta ghè ngay mấy câu thơ có sẵn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, mà dần dần người ta chỉ còn quen gọi bằng cái tên Trạng Trình, làm như ở trên đời này có một ông trạng tên là Trình vậy, một ông trạng mà người ta (1) Họ Trần có một người làm vua thiên hạ. Đầu thỏ (năm mão)
đ uôi hổ (năm dần), đời đời yên dân.
(2) Ngô Lập Chi dịch:
Trùng hưng ngựa sẽ sang sông Cáo già vào cửa đề phòng chớ quên. (Ngụ ý) sẵn sàng tin là có tài nhìn thấu mọi việc trăm năm về trước, trăm năm về sau. Chẳng hạn người ta quả quyết rằng hai câu:
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu.(2) là những câu sấm của Trạng Trình dự đoán trong tương lai nhất định nhà Lê sẽ trung hưng, nhưng rồi lại bị họ Trịnh lấn quyền. Cái đó nghe còn có lý đi. Đến như những câu:
Văn đao chấn cung trùng xuất chấn Thánh vương khắc kỷ bốc hưu tường.(1) mà người ta cũng cho là dự đoán sắp có vua thánh ra đời để cứu muôn dân thì thật là quá đáng.
Chẳng qua đó cũng chỉ do lòng mong ước đã quá ư nóng bỏng của người dân, mong sao cho sớm chấm dứt cảnh loạn ly, mong một đấng minh quân ra đời để đem lại cho trăm họ cảnh sống thái hòa an lạc. Tất cả những cái đó người ta không còn trông chờ gì được ở vua quan nhà Mạc nữa rồi. Người ta phải tìm đến một ông trạng để giải đáp những mối băn khoăn cho họ, để nuôi dưỡng trong họ một chút niềm tin, bởi vì không còn niềm tin thì ai mà sống được!
(1) Nghe nói cung Chấn lại xuất hiện quả Chấn
Bậc vua thánh biết sửa mình, dự đoán là có điềm lành (Cảm hứng thi - nhị)
ại! Lòng dân chính là lòng trời. Kẻ trí giả lẽ nào lại không hiểu điều đó, căn cứ vào cái đó để xét đoán tương lai. Huống chi ông, ông
đã có cả một cuộc đời để nghiền ngẫm về lý
số, chiêm nghiệm về mọi lẽ sinh hóa tuần hoàn của vũ trụ, mọi điều cùng thông đắc táng trong cõi nhân sinh, chẳng lẽ ông không có được chút gửi gắm gì đối với người đời, đối với hậu thế.
Tất nhiên là chẳng ai dám cầm chắc về những điều dự đoán tương lai của mình cả. Vả lại có phải câu chuyện nào cũng dễ dàng nói toạc móng heo ra được đâu. Nhưng đã có bao nhiêu tiền lệ rồi đó. Người ta dùng lối nói lắt léo, bóng gió. Người ta mượn chữ nghĩa của những phường bói toán càn xiên. Hay người ta dùng lối chiết tự... Còn ai muốn gọi đó là sấm ký, hay gì gì đi nữa thì có sao đâu.
Mà nào ông có ý định truyền bá rộng rãi những điều ước đoán đó đâu. Thậm chí cũng chẳng buồn ghi chép lại nữa. Hãy cứ ấp ủ đấy, để mà "ngẫm" xem. Hoặc có khi để cùng bàn luận với con cháu trong nhà, hay một vài ông bạn chí thiết...
ạng có ngờ đâu cái của bí truyền đó tự nó lại có cánh bay đi, mà bay đi nhanh, bay đi xa đến thế. Người biết chữ thuộc nó, người không biết chữ cũng thuộc nó. Cụ già truyền cho con trẻ, đàn ông mách bảo đàn bà. Người ta rỉ tai nhau, thì thào với nhau với tất cả những điệu bộ còn bí hiểm hơn cả câu sấm nữa!
- Đấy là những câu sấm đấy!
- Sấm là từ trên trời rơi xuống à?
- Không. Sấm là của ông Trạng Trình. ạng Trạng là người ghê gớm lắm. Việc trước, việc sau trong khắp thiên hạ, chẳng có việc gì là lọt qua mắt ông Trạng được hết.
- Thật đúng như thế à?
- Cứ như đinh đóng cột ấy. Đấy, thử ngẫm mà xem. Này, nhưng mà hãy liệu cái mồm, nói lộ thiên cơ thì chỉ có mà chết oan!
- ấy thế nên ông Trạng mới chỉ nói bóng gió thôi. Cố mà hiểu...
Cứ như thế sấm ký sinh sôi nảy nở như bươm bướm vậy. Mấy ông đồ nhà quê hay chữ cũng tấp tểnh "tiên tri". Có điều là sấm nào cũng dự đoán những điều tốt đẹp cả. Mà lạ thay sấm nào người ta cũng bảo là của Trạng Trình:
Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh, Can qua xứ xứ khỏi đao binh Mã đề dương cước anh hùng tận, Thân dậu niên lai kiến thái bình(1).
(1) Đuôi rồng (cuối năm thìn) đầu rắn (đầu năm tỵ) khổ chiến tranh, khắp nơi nổi binh đao.
Gót ngựa (năm ngọ), móng dê (năm mùi) anh hùng chết hết. Năm thân dậu tới sẽ thấy thái bình.
Thật là lạ. Đã nói toạc ra đến thế thì còn "sấm" với "ký" gì nữa. ấy thế mà ai cũng tin đấy!...
*
Nhưng rồi thực tế cuộc sống vẫn cứ lôi bật Nguyễn Bỉnh Khiêm ra khỏi những cơn mộng mị.
Những nỗi than van rên xiết của hàng vạn hàng triệu người dân vô tội vẫn cứ hàng ngày vọng đến tai ông, xoáy sâu mãi vào tim óc ông, không để cho ông được yên. Thì ra ông có thể trốn tránh tất cả, nhưng không thể trốn tránh được chính bản thân ông, chính cái tấm lòng ưu ái trong ông nó không hề già cỗi đi cùng với tuổi tác.
Tin tức về thời cuộc vẫn được các bạn bè ông, nhất là các bạn còn làm quan trong triều, cung cấp khá thường xuyên. Đã có lúc người ta đâm ra lạc quan, tưởng đâu như thời vận nhà Mạc đã đến lúc chuyển vần, đổi bại thành thắng.
Đó là vào khoảng đầu năm Canh Ngọ (1570). Lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tròn tám mươi tuổi thọ. Trịnh Kiểm mất. Con trưởng là Tuấn Đức hầu Trịnh Cối cùng con thứ là Phú Lương hầu Trịnh Tùng vì tranh quyền mà đánh lộn nhau kịch liệt. Tất nhiên là Khiêm thái vương Mạc Kính Điển không bỏ lỡ cơ hội hiếm có này để đem đại binh đánh thẳng vào căn cứ đối phương, khiến Trịnh Cối lâm vào thế bí, phải đem cả quân bản bộ cùng hàng loạt tướng lĩnh ra hàng, làm cho hàng ngũ quân Trịnh rối ren cực độ.
Chính trong dịp này, danh tiếng của Nam đạo tướng quân Nguyễn Quyện càng thêm lừng lẫy. Đã có lúc ông ta làm chủ một vùng phía Bắc sông Lam của đất Nghệ An, đi đến đâu là quân Trịnh kinh hãi bỏ chạy đến đấy.
Nhưng đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, tất cả những tin tức bất ngờ ấy chẳng thể là những triệu chứng mới mẻ gì hết. Có chăng chỉ là chút tâm lý dễ thở của những người dân vùng Hải Dương quê ông, cũng như toàn miền đất nhà Mạc. Nhưng người ta đã có thừa kinh nghiệm để hiểu rằng tình trạng đó chỉ là nhất thời, nên chẳng một ai vì thế mà dám nghĩ đến chuyện làm ăn lâu dài cả.
Điều đáng làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải suy nghĩ nhiều lại chính là ở chỗ nhà Mạc đã không thể lợi dụng thời cơ này để củng cố nội bộ về mọi mặt. Không hẳn là họ không nghĩ tới điều đó, nhưng họ đã không thể làm được gì theo ý muốn của họ nữa rồi. Họ đã để mất một lực lượng quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định trong tất cả mọi việc. Đó là lòng dân.
Mạc Mậu Hợp vừa mới lớn lên đã tỏ ra là một ông vua hoang dâm vô độ, chẳng chăm lo gì đến việc triều chính. Đang lúc tình hình khẩn trương như vậy mà ông ta vẫn điềm nhiên dốc sức người, sức của để xây dựng một ngôi điện lớn, gọi là điện
Giảng Học, nhưng kỳ thực chỉ để làm nơi yến tiệc chơi bời. Triều thần thì lãng đãng, rời rã, mạnh ai nấy lo thân mình. Hàng loạt đại thần văn võ kế tiếp nhau dâng sớ từ chức. Và cuối cùng thì đến phụ chính œng vương Mạc Đôn Nhượng, thuộc hàng tôn thất rất gần gũi với nhà vua, cũng chán nản xin được giải nhiệm nốt.
Nào phải họ muốn bỏ mặc nhà vua. Không, họ đã cùng với rất nhiều đại thần khác liên tiếp dâng sớ can gián. Họ đã nói trắng ra tình hình nguy ngập trước mắt, nếu không lo kịp thời chấn chỉnh thì "bại vong chưa chắc gì tránh khỏi". Họ đã vạch trần những tệ lậu không dễ gì làm ngơ được: "Kỷ cương rối loạn, chính sự hững hờ, hình ngục oan uổng, pháp lệnh sai lầm, tướng chưa hòa thuận, binh chưa chỉnh nghiêm". Họ đã vạch mặt chỉ trán đích danh nhiều vị đại thần bất lực, trễ biếng, kể từ œng vương phụ chính trở xuống. Họ dám chất vấn ngay cả nhà vua, khẩn thiết kêu gọi: "Đôn sùng căn bản quốc gia, cố kết nhân tâm, hậu đãi dân mà không bắt dân khốn...". Nhưng rồi tất cả đều vô hiệu. Mạc Mậu Hợp đều cho những lý lẽ của họ là xác đáng, nhưng rồi vẫn cứ bỏ qua. Thật chẳng còn cách nào nữa.
Giữa lúc tình hình khốn đốn như vậy thì Khiêm thái vương Mạc Kính Điển mất. Lòng người trong nước càng thêm bâng khuâng, giao động. Trong suốt hai chục năm trời nắm giữ binh quyền, gồm cả văn võ, ông đã tỏ ra xứng đáng là cột trụ vững vàng chống đỡ cho cái lâu đài đã quá rệu rã của nhà Mạc. Trải qua bao gian nan vất vả vẫn một dạ trung cần, tiếp đãi thần liêu có lễ, đối với quân sĩ có ân, thật khó có người thay thế ông được.
Cái tin đau buồn ấy đã đem đến cho Nguyễn Bỉnh Khiêm những phút chống chếnh khó tả. Sau vua Mạc Đăng Doanh, Khiêm thái vương chính là người tôn thất duy nhất mà ông coi như một người tri kỷ.
*
Tuổi tác và lo âu đã nhanh chóng bào mòn đi cái cơ thể vốn rất cường tráng của ông. Cũng trời đất ấy, nhưng những ngày đông tháng giá hình như cứ kéo dài thêm mãi ra, lạnh lẽo thê lương hơn bao giờ hết. Cũng cảnh vật ấy, nhưng hình như những lối đi về với quán Trung Tân, với gốc đa, bến cá cứ mãi thêm ra. Ngày tháng cứ dần dần khép kín lại bên mấy vồng quýt, mấy luống rau, bờ ao cá, hầu như đã trở thành nguồn vui duy nhất của ông. Những đêm tối cứ như dàn đều ra, san bằng đi, âm thầm lặng lẽ với mấy chén rượu thuốc thơm nồng hương vị bạn bè từ khắp nơi gửi đến, cùng những tiếng kẽo kẹt buồn thiu từ mấy chiếc khung cửi bên dưới nhà ngang.
Đã nhiều lúc ông nghĩ đến cái chết như một sự yên nghỉ hoàn toàn, sau cả một cuộc đời đằng đẵng, lao tâm khổ tứ đã nhiều mà rút
(1) Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên đời Trần.
cục chỉ là dã tràng xe cát. Giá như xuống "dưới kia" lại được gặp vong hồn các cụ Tiều ẩn, ức Trai thì sung sướng biết chừng nào. Chỉ mong các cụ mở lượng tha thứ cho kẻ học trò "sinh bất phùng thời" này. Mà biết đâu chẳng làm bạn với Tiết phu tiên sinh(1) mà cùng ngâm mấy câu phú Hoa sen giếng ngọc. "Anh cũng là người quân tử ưa hoa sen đó chăng?..." Thật là thú vị. Người ta nói khi chết là chỉ có thể phách nát đi, còn tinh anh thì vẫn cứ lưu truyền mãi mãi. Ngâm mấy câu trong bài phú bất hủ mà ta cứ có cảm tưởng như tinh anh của ông trạng đời Trần vẫn còn quanh quất đâu đây. ại, giả sử ông không có cái tướng mạo xấu xí khiến nhà vua có lúc muốn ruồng bỏ ông, thì sao có cái bài phú để tỏ phẩm giá thanh cao như hoa sen giếng ngọc này. Phải chăng nhiều khi chính nỗi bất hạnh đã làm cho những tâm hồn cao khiết càng thêm ánh lên những tia sáng rực rỡ.
Thế rồi một buổi sáng cuối thu se lạnh, ông thấy trong người tự nhiên đổi khác. Chân tay rời rã, mồ hôi vã ra, tâm thần thảng thốt. Chiếc gáo nước tưới rau như tự nó tuột khỏi tay ông. Chỉ kịp ú ớ lên một tiếng thì đã ngã khụy xuống. Linh tính cho ông thấy ngay là đã đến ngày tận số. Lúc này ông đã 95 tuổi đời rồi còn gì!
Tin Nguyễn Bỉnh Khiêm ốm nặng đã làm cho đám môn sinh và bạn bè khắp nơi, kể cả
ở Kinh đều hết sức xúc động. Họ kéo nhau về thăm hỏi rất đông với tất cả tấm lòng thành kính, ngưỡng mộ. Đã từ lâu cái am Bạch Vân vắng vẻ lạnh lẽo của ông mới lại bày ra cảnh xum vầy đầm ấm như thế này. Người ta đã đem đến cho ông không thiếu gì những thứ thuốc quý, cùng các món sơn hào hải vị đắt tiền. Nhưng nào phải những thứ đó đã có phép nhiệm màu kéo dài những ngày hấp hối của ông. Chính là tình nghĩa, tình bạn, tình thầy trò, tình xóm làng đã làm cho ông chưa thể dứt cuộc đời. Có những lúc nằm yên một mình sau tấm màn che ám khói, một giọt nước mắt bỗng từ từ lăn trên gò má nhăn nhúm của ông, nóng bỏng, nặng nề, lặng lẽ.
Rồi một hôm sứ giả của nhà vua đến. Vẫn là vị sứ giả quen thuộc của những lần trước. Nhìn thấy tấm thân tiều tụy của người nằm đó, bất giác ông ta cũng bưng mặt thở dài.
Sau mấy lời thăm hỏi, ông ta mới ghé sát lại bên tai Nguyễn Bỉnh Khiêm mà rỉ sẽ mấy câu.
Nguyễn Bỉnh Khiêm như tỉnh hẳn lại. Nhưng ông không trả lời câu hỏi, mà đưa mắt ra hiệu cho người con trai vẫn đứng túc trực bên dưới chân ông. Chỉ một lát sau anh này đã bưng ra một phong thư dán kín, đặt trên một cái khay và thi lễ trao tay cho vị sứ giả. Đó chính là lời sớ cuối cùng của ông dâng lên nhà vua Mạc Mậu Hợp. Ngay từ hôm mới thấy khác trong mình ông đã gắng hết tinh thần để thảo tờ sớ này. Dù sao thì nghĩa vua tôi vẫn
là điều ông đinh ninh trong dạ cho đến hơi thở cuối cùng: "... Thần suy tính độ số, thấy vận nước nhà suy, vận nhà Lê đã đến hồi tái tạo. ý trờiđịnh, sức người khó theo. Song nhân giả
có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên thì thần chết cũng được thỏa lòng..." Tiếp đó ông lại ra lệnh cho tất cả mọi người lùi đi và chỉ khi còn một mình với vị sứ giả, ông mới cố hết sức nhỏm dậy, phác một cử chỉ mơ hồ như là một lễ bái vọng hướng về cửa khuyết và nói qua hơi thở nặng nề, đứt quãng:
- Ngày sau, nhược bằng có biến cố gì thì đất Cao Bằng dầu nhỏ hẹp cũng có thể hưởng phúc được vài đời...
Bất giác vị sứ giả thấy lạnh toát cả mình. Lời nói của người sắp chết thường là những lời nói rất linh ứng. Vả lại ngay lúc bình thời, những dự đoán của ông Trạng về thời cuộc có mấy khi sai lạc đâu!
*
Cuối cùng rồi cái cây đại thụ đã từng tỏa rợp bóng trên cả một thời ấy cũng phải ngã xuống. Nhưng nó đã ngã xuống không chút nặng nề, ồn ào nào hết. Trái lại rất nhẹ nhàng, thanh thoát, lâng lâng. Cứ như đó là một cây thần vì không chịu được những chất dơ bẩn người ta bón vào gốc nó, đã bay lên, lên bổng đến tận cung trăng, để rồi lại soi bóng xuống mặt đất.
Đó là vào ngày 28 tháng 11 năm Đinh Dậu niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585), Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa tròn 95 tuổi thọ.
Tang lễ ông được tiến hành hết sức trọng thể, quá ư trọng thể so với ước muốn cuối cùng của ông. Nhà vua đã cử một đoàn khâm sai khá đông đảo với nhiều vị quan đầu triều về viếng. Cũng đủ cờ tiết, nghi trượng và cả đạo sắc phong nữa. Cũng loa dọn đường, trống hiệu lệnh, lính thị vệ dàn trước, theo sau.
Những bạn thân của ông còn đang làm quan trong triều cũng về hầu như đủ mặt. Chỉ vắng bóng có một người, mà rủi thay đó là người ông hằng quý trọng nhất. Đó là Sách quốc công thái bảo Giáp Hải. Chắc lúc lâm chung ông không thể ngờ được rằng người bạn chung thủy ấy, cũng sẽ "ra đi" sau ông có mấy ngày.
Rồi thì các quan lại sở tại, từ trấn, phủ xuống đến huyện, xã, cũng lục tục tề tựu. Lại cả những đoàn người mà dân làng Trung Am chưa hề biết mặt, không hiểu từ những phương trời nào tới, cũng tự xưng là học trò, là người chịu ơn sâu của quan trạng quá cố. Tất nhiên là đám môn sinh thì đã đủ mặt từ khi ông ốm nặng rồi. Cả làng xóm đều rộn hẳn lên, không
phải chỉ vì cảnh ngựa xe, cờ quạt, mà vì mỗi người dân, lớn bé, già trẻ đều muốn góp một phần việc gì đó vào cuộc tiễn biệt cuối cùng con người mà suốt đời họ tôn quý như cha đẻ vậy.
Trước linh cữu ông, từ trong nhà ra đến ngoài sân, ngoài đường, người ta bày la liệt nào cờ lọng, nào long đình, hương án, nào bảng vàng tiến sĩ, nào các hòm sắc, hoàn mũ áo vua ban... Tất cả đều là vàng son lộng lẫy. Tất cả đều rực sáng lên dưới ánh những hàng bạch lạp thắp sáng suốt ngày đêm. Tất cả đều lung linh qua những làn khói hương nghi ngút không lúc nào dứt.
Một hồi chiêng trống nổi lên. Phường bát âm cất giọng véo von, cùng phường kèn réo rắt. Tất cả mấy hàng người túc trực hai bên linh sàng vội vàng thụp xuống. Vị khâm sai, mũ áo chỉnh tề, trịnh trọng bước từng bước khoan thai lên hàng chiếu cạp điều, hai tay nâng cao hòm sắc, kính cẩn hướng về phía kinh khuyết làm lễ bái mạng.
Tiếp đó, tất cả đều im bặt để nghe tuyên đọc sắc chỉ của nhà vua: Nguyễn Bỉnh Khiêm được truy phong Lại bộ thượng thư, thái phó, Trình quốc công. Tổ khảo hai đời cùng các con trai được ấm phong chức tước. Ba bà phu nhân cũng được mỹ hiệu cao sang... Thật là hiển vinh đến tột độ vậy!
Nhà vua còn ra đặc ân ban cho mấy chữ đại tự "Mạc triều trạng nguyên tể tướng
từ" do chính tay nhà vua viết và sai lập đền thờ và ban cập tự điền.
Người ta có cảm tưởng như dưới bóng cả của cây đại thụ Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa mới đổ xuống, ánh hào quang của nhà Mạc bỗng lại được bừng sáng lên. Nhưng đó chỉ là những tia hào quang cuối cùng, như những làn nắng quái trong buổi chiều tà. Thực tình thì giữa cái đám người áo xiêm rực rỡ đang ngồi quây quần trước cảnh vàng son này chẳng mấy ai có bụng dạ thanh thản để hướng về hương hồn người quá cố.
Bởi vì chính lúc này, chính lúc họ đang buộc phải dựng nên những tấn trò huy hoàng giả tạo này, thì một cuộc bắt phu bắt lính quy mô chưa từng có đang đổ lên vai họ. Mạc Mậu Hợp sau nhiều năm phải lẩn quất ở ngoài vì sợ quân giặc tiến công và vì nhiều lần bị hỏa hoạn, bị sét đánh, đã quyết định trở về kinh thành. Vì vậy ông ta đã chủ trương một cuộc tu sửa hết sức to lớn, từ tường thành, hào lũy, cho đến cung đền, đài tạ, bất chấp lời can ngăn của nhiều vị đình thần. Từ hàng năm nay, dân các trấn đã phải huy động để tải đá, vận chuyển gỗ tre, nung vôi nung gạch, trong lúc ở quê họ chính là lúc hạn hán kéo dài hàng bốn năm tháng trời, không ai lo cho cả...
Đám tang hình như chỉ mới thực sự bắt đầu sau khi đã chấm dứt những thứ nghi lễ ồn ào và sau khi các quan khâm sai đã lên đường
trở lại triều. Lúc này mọi người mới thấm thía nỗi mất mát to lớn mênh mông mà người ta đang phải chịu đựng. Một thiên tài mà dễ có mấy đời khí thiêng đất nước mới chung đúc nên được. Một người thầy, một phu tử mà học vấn uyên thâm, đức độ cao cả khó ai sánh kịp. Một người cha mà lượng cả và tình thương bao trùm lên khắp cả muôn người, đến cả cỏ cây sông núi.
Người ta bỗng ngao ngán nhìn vào hàng ngũ của mình, giờ đây sao đã vơi đi đến nửa. Kẻ còn người khuất, cái đó là lẽ thường tình. Nhưng nào phải chỉ có thế. Nhiều tên tuổi vắng mặt lại còn sống sờ sờ ra đó, những Lương Hữu Khánh, những Phùng Khắc Khoan... Chẳng biết giờ đây họ đã nghe được cái tin đau đớn này chưa? Mà có nghe biết thì cũng làm gì được nữa. Họ đã ở bên kia trận tuyến mà người ta gọi là quân địch.
ại, thầy chúng ta đã mỏi mòn chờ trông, chờ trông đến chín mươi nhăm năm trời rồi, mà vẫn chưa được nhìn thấy cái cảnh thái hòa vũ trụ, cảnh xa thư về một mối cảnh đất nước lại xum vầy như muôn dân hằng mong ước. Thầy chúng ta đã suốt đời lo toan cho bát cơm manh áo của đám dân lành, cho kỷ cương rường mối. Thế mà Người đã phải nhắm mắt xuôi tay giữa cảnh rối ren đổ nát, đói rách lầm than!
Nhưng "cùng" rồi thì tất sẽ phải "biến", mà "biến" thì ắt sẽ phải "thông", lời thầy đã dạy, lẽ nào những kẻ hậu sinh ta không ghi lòng tạc dạ.
Giữa lúc đó thì Đinh Thì Trung bước ra. Trong đám môn sinh có lẽ anh này là người có cái may mắn nhất được hầu hạ bên thầy trong những năm tháng tàn của Người. Cầm trong tay bài văn tế anh đã thay mặt cho tất cả môn sinh để soạn thảo, mà giọng anh cứ nấc mãi lên, không sao đọc được. Nhưng cả hàng ngàn con người xung quanh thì đã im bặt chờ anh.
Kính nhớ tiên sinh: Bể Đông Hải chung anh, Núi Nam Sơn dục tú. Mắt tai sáng suốt,
Trời xanh phú dữ vốn không nghèo. Bụng dạ mở mang Đạo lớn uẩn tàng nguyên sẵn có...
Mọi người đều ngước mắt nhìn lên. Qua làn khói trầm nghi ngút, bất giác ai cũng cảm thấy như hương hồn của người quá cố cùng với khí thiêng sông núi đang quanh quất đâu đây, trong căn nhà, ngoài xóm làng, trên khắp đồi cây nội cỏ, như chẳng bao giờ muốn tan đi vào cõi hư vô, tịch diệt.
(1) Theo Tuyết Giang phu tử, Chu Thiên. Nguyên văn bằng chữ Hán.
Đạo thống Thánh nhân từ tiên sinh mà truyền ra, Bờ cõi Thánh nhân duy tiên sinh là thấu đáo.
Những tưởng đạo càng ngày càng sáng, Cửa đã thông Châu Lỗ cung tường, Hay đâu sinh ra chẳng gặp thời, Đời nào phải Đường Ngu vũ trụ...
Có những tiếng nấc, tiếng thở dài được nén lại. Giọng người đọc càng thêm run run, đứt quãng:
Cảm tiên sinh, núi sông đều biến sắc Nước triều man mác đôi phen, Nhớ tiên sinh, sâu kiến cũng đau lòng Tơ nhện vấn vương khôn gỡ.
Đền trên non lạnh lẽo khói mây, Nhà đầu xóm ủ ê hoa cỏ Chợ nọ kỳ phiên vẫn họp
Khách buôn huyên náo mà tiên sinh âm hưởng vắng không.
Chùa kia cơ chỉ vẫn còn.
Tòa Phật trang nghiêm, tưởng tiên sinh dung nghi còn đó.
Bia đá của tiên sinh dựng,
Nhớ tiên sinh muốn tìm dấu cũ, thì nét chữ mịt mờ, rêu chen mặt đá, đã thành ra một chiếc tàn bia.
Cây đa của tiên sinh giồng,
Nhớ tiên sinh muốn ngắm cảnh xưa, thì còn cành lá lơ thơ, tuyết rủ đầu cây, đã hóa hẳn một chòm cổ thụ.
Hàn Giang là chỗ tiên sinh ở,
Trông tiên sinh, ở trên sông ấy, chỉ thấy khi nước xuống, khi nước lên.
Bạch Vân là tên tiên sinh đặt.
Trông tiên sinh ở trên mây kia, chỉ thấy đám mây tan, đám mây tụ...(1)
Không còn ai nén nổi xúc động nữa. Tất cả đều òa lên khóc. Từ đám bạn bè, môn sinh cho đến ông già bà cả, lớn nhỏ trong làng.
Khói trầm hương vẫn âm thầm nghi ngút, thơm tho, thanh tịnh, vấn vương, quyến luyến như chính cuộc đời và tấm lòng của người nằm đó, của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của Trạng Trình, của một danh nhân mà tên tuổi sẽ đời đời sống mãi với nhân dân với non sông đất nước.

Không có nhận xét nào: