Thứ Tư, 26 tháng 12, 2007

Chuyện nỏ thần 2

Trọng Thủy bước quanh quẩn. Mãi sau mới dám khép nép vào, mặt bơ thờ nhợt trắng. Tiếng cười nói vang bốn bề. Nắng nhạt đã xế xuống sau dãy núi Ba Vì sẫm xanh. Bỗng tiếng chiêng trong thành ngoài nội rền lên cùng một lúc. Hội mừng tuyển võ năm nay đă xong thật chu đáo ở cả các gióng vua chủ ngự. Vua chủ vừa lệnh ra khắp các phường săn đến ngoŕi cõi. Bắt đầu những đám hội linh đěnh của các đám đông cả lŕng, cả chòm xóm quây quần đi đón các lực sĩ thi tài đã về đến đầu cői. Vang động từ tręn núi xuống các vạn chài. Liền mấy đêm hội hát mừng, bắt đầu từ đęm nay.
VIII
Từ cổng thành vào, đông nghịt người đi xem vật phẩm lễ cống bęn Phiên Ngung đã sang tới. Nhịp bước người đi như múa, hòa tiếng reo mừng trong tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng trống. Vua Thục đã phái quân quan lên đón đồ cống cách thŕnh một ngày đường, như mọi năm. Một toán quân hoa cờ, dŕn ngang, đi trước. Các cô tố nữ múa bŕi bông, múa quạt, đánh cồng dẹp đường. Rồi đến những người hề, mặt bôi sáp trắng, không biết đŕn bà hay đàn ông mặc giả đàn bà, váy loe quét đất, áo ngắn hở nửa lưng, vạt thắt quả găng. Mỗi cặp bưng đôi chiếc trống cơm dŕi như quả mướp, dây da trâu đeo lęn cổ. Hai tay đu đưa bập bồng vỗ mặt trống, tang trống. Trẻ nhỏ đuổi theo đám giả trai giả gái vỗ trống cơm đông nhất. Tiếng sáo réo rắt. Đoŕn quân Phiên Ngung nghiêm nghị áo xám, ống tay rộng, chân đi giày cỏ, mũ lá. Các quan áp tải lễ cống đội mũ da bò nhọn chỏm, cưỡi ngựa, mắt nhìn thẳng. Những con la bước lênh khênh cao hơn hẳn một đầu người. Hàng trăm con la, đầu cŕi ngù đỏ toẽ xuống nửa bờm, khấu đuôi tết lụa bông hoa hięn. Trên lưng, mỗi con la đội hai chiếc rương lớn sơn then, phủ lụa thiên thanh. Con la đi đầu đă qua cổng thành được một lúc lâu, mà đoàn la đi sau vẫn lũ lượt vào. Người hai bên đường đứng lại, chỉ trỏ, trầm trồ.
-Năm nay vua Triệu tiến cống vua chủ ta hậu hĩ quá.
-Trầm! Trầm hương! Hòm rương đóng kỹ thế kia mà mùi trầm vẫn sực nức. Nam Hải mà có thứ trầm thơm thế à?
-Nghe nói có cả lễ ăn hỏi nęn mới đưa nhiều của cải đến thế chứ.
-Thế nào? Thế nào? Ai bảo sao? Có người nhảy lên, reo nói, đếm vanh vách như chính tay mình đã được xếp các thứ phẩm vật quý báu lên trên lưng la.
-Kia là lụa, lụa bạch Hợp Phổ đấy. Lại nhung tơ Thương Ngô. Còn bình bạc, gương bạc, quạt bạc, đồ chạm quý đất Uất Lâm. Các rương kia đựng hương liệu. Ngoŕi đảo xa ở Chu Nhai hay tận Đŕm Nhĩ mới có giống hương tuyến hun áo. Người mặc vào, váy áo thơm nức cả tháng. Không ai biết thế nào. Chỉ biết mừng giỡn lên. Bao nhiêu đồ cống quý giá qua trước mặt. Có người gặng lại:
-Ai nói thế nào?
-Con vua Triệu sắp được lŕm rể vua chủ ta, còn thế nào nữa!
-Cớ sao chư ông biết?
-Người ở phường, ở chợ đồn đă lâu rồi. Anh ả này rõ nợ đời, chẳng biết gì.
-Tớ cứ ro ró xó bãi, chẳng biết gì thật. Thế thì thế nào?
-Lại còn thế nào! Vua Triệu cho con trai sang hầu vua chủ đã mấy năm nay rồi, bác biết không?
-Chuyện đầu lưỡi cả, chứ bụng dạ nó ai biết được sâu nông thế nŕo.
-Việc đời cũng hay. Đương lŕ thằng giặc, bỗng thành ông quan lạc.
-› lạ, lão úy Đà ấy mà trúng nỏ quân ta năm trước thì chết đỏng tử rồi. Thế mà bây giờ lại sắp được ngồi uống rượu đôi bęn dâu gia với vua chủ?
-Cơ ngơi vần xoay đến vậy mới tŕi!
-Đếm được ngoŕi trăm con la tải đồ cống. Sang trọng quá. Khác mọi năm quá. Đích thị lŕ chạm ngõ, ăn hỏi gì đây nên mới to tát nhường này.
-Thế cưới xin ai?
-ạng này tai điếc lòi. Từ nãy, đầu gối nghe hay tai nghe? Con trai úy Đŕ lấy con gái vua chủ.
-Đấy, đấy, cái ông quan cưỡi ngựa đi sau cůng đốc đoŕn la cống là rể vua chủ đấy.
-ờ ờ, ông quan ấy... ạng quan ấy à... Người này mình đã trông thấy rồi... vẫn trông thấy... Cứ ngỡ quan bên ta. Cũng áo mũ quan ta, hóa ra là nó.
-Chán thật.
-Đương vui lại chán thế nào!
-Quân Triệu cũng được đi đường cái vŕo phường, vào thành như mình. Lại hơn mình. Vào cả nhà vua chủ. Chư ông đã mấy đời nhà ở phường ở chợ. Hỏi ai từ khi xây thành đã được bước chân vào xem cung vua lần nào?
-Thôi, việc vua quan thiên hạ sự, biết thế nào mà bàn. Trên thành cao, vua Thục và các quan ra đứng ngắm đồ cống quân Triệu đang nườm nượp vŕo. Vua Thục đứng im không nói. Nhưng nét nhěn chăm chú. Dưới thŕnh, bên giếng nước chỗ khác, vẫn còn những đám dai dẳng cãi nhau nhấm nhẳng.
-Không phải.
-Nó thua vua chủ thì phải dâng đồ cống. Bao giờ quân thua chẳng phải chịu đớn thế.
-Nhưng mà con nó lại vào ở rể.
-Vua chủ ta nhân nghĩa.
-Ngoài thành lại có người nói khác chư ông.
-Còn nói thế nào?
-Đừng ai tha lời đi chỗ khác, tôi mới dám nói.
-Tao là quan lạc hầu xử án đây, cho mày nói.
-Người ngoài cõi nói rằng giặc thua trận rồi giặc lại vào được thành, là điểm gở.
-Vua chủ ta lượng rộng như bể, chư ông ạ.
-Nhưng mà phải tùy mặt chứ. Đằng này cho trộm cướp vào nhà.
-Thôi, thôi... Trong cửa cao trên thành, vua Thục vẫn đứng yên nhìn theo đoàn la lững thững vào qua các phường. Xung quanh, quân tướng cũng đứng nghiêm, lặng lẽ. Rồi vua Thục trỏ tay:
-ạng Cao Lỗ, ông nghĩ xem đă thấy ra việc ta tính một được mười, biến hóa đến thế đă là hay chưa. Ta không cất quân đến Phiên Ngung mà quân kia phải nộp của nộp người làm tin, khác nào ta nắm gáy nó. ạng đã thấy thế là phải chưa? Cao Lỗ nói:
-Tôi thật vẫn nghi ngại.
-ạng lúc nào cũng là người cả lo. ạng còn ngại thế nào? Cao Lỗ nói thống thiết:
-Bây giờ hai họ một nhà, thiên hạ mừng được yên vui. Nhưng thật tâm tôi vẫn áy náy. Hòa hiếu thì quân quan người ra vào nhà ta như nhà người, hang hốc nào cũng thông tỏ. Ngộ như mai kia cơn cớ gì xảy đến, chẳng hóa ra bấy lâu ta nuôi chó ngao trong nhà mà ta không hay. Lòng người lá phải lá trái lường sao hết được. Lúc ấy, đủ mặt các tướng theo vua chủ từ ngŕy trước, đứng quanh. ạng Đô Nồi, tướng Cao, tướng Đống, tướng Vực. Các ông Đinh, ông Phạm. Mọi người đăm đăm, nghięm mặt. Nhưng không ai dám nói tiếp lời Cao Lỗ. Cao Lỗ dứt tiếng, giọng sang sảng vào khoảng không. Vua chủ hằm hằm đứng dậy, quắc mắt:
-ạng nói thế, là thế nào? Cao Lỗ vẫn dõng dạc:
-Tôi nghĩ, ta đă có thiên hạ trong tay, ta lại phải biết cái lo ngoài nghìn dặm. Mười tám đường Hùng trước kia đã phải lấy cái lo toan ấy làm giường mối, không đời nào được sao nhãng nghỉ ngơi sự đối phó. Vua Thục nhíu đôi mŕy rậm, trong khi Cao Lỗ nói mỗi lúc một thiết tha:
-Không đời nŕo sao nhãng việc đối phó. Cả đứa trẻ lęn ba cũng phải lớn phổng, biết đứng dậy đánh giặc. Xưa kia
... Kíp đến lúc quân nhŕ Œn tới chân Núi Trâu bộ Vũ Ninh. Đứa con trai ba tuổi duỗi chân đứng dậy, cao hơn mười trượng, ngứa mũi hắt hơi liền mấy tiếng, cầm chiếc gậy sắt, giơ lęn thét lớn:
"Ta là tướng nhà trời đây". Rồi đội nón sắt, cưỡi ngựa sắt. Ngựa chồm lęn, hí dài một tiếng mà phi như bay. Nháy mắt đã tới trước vua Hùng. Cứ thế, giơ gậy sắt đi trước, quân quan theo sau. Giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đầu cúi xuống hàng phục. Vua Œn chết tại trận. Mọi người xung quanh vẫn im. Vua Thục như lơ đãng nhìn ra ngoài vùng bờ tre rậm rạp trước mặt. Ai cũng run sợ, không biết vua chủ đương nghĩ thế nào. Cao Lỗ mắm môi, rồi ngước mắt:
-Hào kiệt sáu cõi nước ta nghìn năm vẫn đinh ninh một tiếng đánh. Xin vua chủ nghĩ lại. Vua Thục thét to:
-Kẻ kia như con cua trong thời. Ta đă nói thế.
-Dẫu cho...
Đô Nồi chen vŕo câu nửa chừng của Cao Lỗ:
-Xin vua chủ... Vua Thục trầm lại, nói thong thả. Nhưng dằn từng tiếng:
-Ta đă quyết thế. Con ếch úy Đŕ đă nằm trong giỏ của ta, ta thò tay bắt lúc nào cũng được. Các người quá lo cũng hóa ra cua cáy cả rồi. Cấm không ai được bŕn tán nữa mà hèn người đi! Im lặng rùng rợn. Cao Lỗ đứng yên, rồi quay lại, sụp xuống nắm tà áo vua Thục.
-Bình sinh, tôi bụng nghĩ thế nào, nói thế.
-ạng nghĩ quẩn rồi.
-Từ thuở tôi bỏ cày dưới bãi ở Vũ Ninh về theo vua chủ, lòng dạ tôi thế nào, hà tất... Vua Thục ngắt lời:
-Lúc nãy ông nói lòng người lá phải lá trái...
-Vâng, lòng người lá phải lá trái khôn lường. Ngày trước, úy Đà đã nhân cơ hội nhà Tần sắp tiêu vong mà lấy Quế Lâm, Tượng Quận, việc nham hiểm này bốn phương đều tường, vẫn còn rành rành ra đấy. Vua Thục cười nhạt:
-Không, không, sự thể cũng rõ như ban ngày mà sao bụng dạ ông cứ như vướng tóc. Đồ sính lễ của nó cũng là đồ tiến cống ta. úy Đŕ được ở nhŕ thì con phải sang đây thế mạng. Không động binh mŕ thu tất cả thiên hạ của nó. Bờ cõi ta đương như trải chiếu, mở cờ, ông lại chỉ bàn cuốn cờ gấp chiếu là làm sao! Bỗng vua Thục cười khà khà, tiếng to mà lạnh ngắt:
-ừ, có khi ông nói tôi cũng cho là phải. Thì cứ nghĩ như úy Đà là quân phản trắc. Nhưng cái cánh cung gỗ dâu Phiên Ngung hỏi đối với sức thần ta thế nào. ạng hiểu rồi đấy chứ? Ha ha...
-Tôi thật lo. Khéo không đại sự có cơ... Vua Thục giận lắm:
-Lời nói xàm báng chẳng khác phạm tội đại nghịch. Ta thể tình mà tha cho lần này nữa. Thôi! Cao Lỗ cúi đầu, lẳng lặng lùi ra. Bên cửa tây, bọn các nàng hầu đương xô nhau ra đứng nhěn xa xa phía đường cái ngŕy hội, người ta túm tụm xem đồ cống ngổn ngang. Mỵ Châu ngồi hiên trong. Nhưng nghe rõ mồn một các cô nàng hầu đương rỉ tai với nhau. Từng lúc lại chau mày, cúi mặt, thở dài. Mỵ Châu thẫn thờ.
-Nước Triệu đem dâng của nhiều thế kia, cũng lŕ khoe giàu có đấy.
-Mày còn nhớ năm trước quân Triệu chạy chết, vua chủ mở cửa thành cho cả các phường ra đuổi giặc. Chúng mình cũng đòi đi. Giặc đến nhŕ, đŕn bà cũng đánh, nhớ không. Vậy mà, bây giờ nghênh ngang thế vầy. Nghĩ cũng nực cười.
-Không nực cười bằng chúng mày lại ra xem!
-Chẳng thèm! Bọn các cô nàng hầu buông rèm, quay vào, đứng quanh Mỵ Châu vẫn đương ngồi ủ rũ. Mỵ Châu gượng cười:
-Tàm ơi! Kể chuyện vui nào, kể đi. Tàm nói:
-Người ta bảo đời trước có nhiều chuyện vui hơn bây giờ.
-Thuở bé, mày chỉ ở với vượn, nghe ai nói thế mà biết. Tàm kể chuyện. Đời vua Hůng Duệ có nàng công chúa Tiên Dong. Tiên Dong chẳng ưa ngồi góc lầu ro ró nhìn ra như cô cháu mình đâu. Quanh năm, Tięn Dong chơi thuyền ngoài sông, thường mảng vui nơi sông hồ, quên về. ở Chu Diên, trên sông Cái, có nhà họ Chử nghèo khó, bố con phải chung một khố. Bố chết, Chử thương bố, đŕnh liệm khố chôn bố, mình chịu ở truồng. Suốt ngày vùi thân dưới cát, đêm mới dám mò ra kéo cá kiếm ăn. Gần sáng lại về ngủ cạnh bụi lau trong cát. Một ngày kia, mới sớm, đã nghe tiếng sáo thổi, tiếng cồng dẹp đường, rồi thấy những cánh mŕn the quây quanh bụi lau. Tiên Dong bước vào màn, cởi xiêm áo, giội nước tắm. Cát trôi, chàng Chử tô hô ra trong cát. Tiên Dong giật mình, rồi trấn tĩnh lại, ngửa mặt lên trời, nói:
“Ta vốn ước suốt đời thảnh thơi không biết ràng buộc. Nay gặp người cùng trong hố cát. Có phải trời xui khiến vậy không". Chàng Chử nói:
"Xin Tiên Dong xá tội cho". Tiên Dong nói:
“Đây lŕ duyên trời xe chàng cùng ta". Những người theo hầu về nói sự tình với vua Duệ. Vua Duệ giận quá. Sai quân quan đi bắt về. Nhưng quân gia ra đến nơi chỉ thấy băi sông bụi lau vắng tanh. Thuyền đă giong đi chốn trời nước nŕo không biết. Về sau, nghe nói vợ chồng Chử mở chợ lập phường ở một bến đông vui lắm tręn sông Cái. Mỵ Châu thở dài:
-Nghe nói chuyện ấy từ thuở Hùng xa lắm chứ không phải vua Duệ đời trước đâu.
-Thế mà người ta vẫn kể cửa miệng như mới hôm qua.
-Biết vợ chồng Tiên Dong có còn không?
-Muốn đi těm bến sông có phường chợ đông vui ấy ŕ? Mỵ Châu lại thở dài:
-Phận mình hẩm hiu, đâu được phóng đăng thế mà mong. Hai cánh song đã đóng từ lâu. Trong bóng tối âm thầm, những nét mặt rầu rầu. Giọt nước mắt bỗng long lanh ứa ra.
* * *
Giữa bóng tối nửa đęm, một vòng lửa vung tròn, rồi tắt. ánh lửa làm hiệu gọi đò sang sông khuya. Rồi vòng lửa lại hồng rực xuống mặt nước, chập chờn soi bóng người quay mồi làm hiệu. Chỉ một thoáng sáng cũng trông thấy lượn lờ một con rùa bên đám lá trang. ánh lửa lại xòe tròn lên. Giờ đã trông rõ Cao Lỗ ngồi trên chiếc thuyền thúng đương bơi qua sông. Cứ mỗi lúc, lại một tay vung mồi lửa, một tay thoăn thoắt chém nước đẩy thuyền đi. Chiếc thuyền vút vŕo hào thành rồi ghé bờ. Cao Lỗ nhảy thoắt lên. Khi chiều còn trông thấy mặt thành sừng sững. Dưới cổng thành, người ra kín nước gọi nhau ơi ới. Những con trâu ngoài bãi về muộn, tiếng y uôm, nghé ngọ vào bóng tối. Giờ đây, cả một vùng lồng lộng trời nước, chi chít từng chòm, từng vầng sao, lẫn lộn không nhận ra đâu bóng sao trên trời, đâu ánh sao mặt nước. Cao Lỗ khoác trên vai chiếc tay nải. Cao Lỗ bước lên mặt thành. Đến chỗ đầu tường, Cao Lỗ đứng lại. Cao Lỗ ngước nhěn trước mặt. Dưới bến cũng như trên thành, trời vẫn tối đen. Cao Lỗ đứng tựa lưng vŕo tường. Im một lúc, nhìn ra khoảng không càng mù mịt. Cao Lỗ rút ống sáo cài trên tay nải. Tiếng sáo nhẹ nhàng thảnh thơi từ bóng tối thoảng ra. Tiếng sáo ấy thật kỳ, tiếng sáo khiến được vùng tối trước mặt sáng dần. Rồi giữa nền tường đá ong bờ rào xương rồng đen kịt, một khung cửa tròn sang sáng lên. ánh đèn trong lầu đã rõ hẳn. Giữa vùng sáng đčn bấc lung lay. Thoáng có bóng người. Cao Lỗ đến đứng bờ tường dưới khung cửa hẩng sáng. Tiếng sáo vẫn nỉ non. Rồi một lúc lâu lặng im.
-Mình đi đâu mŕ lặn lội đęm hôm thế?
-Tôi phải đi.
-Đi đâu?
-Tôi chỉ còn được tha tội chết lần này nữa thôi.
-Trời ơi!
-Tôi còn nhớ, ngoài hai mươi năm trước những đęm chạy giặc Tần, trời cũng đầy sao như đęm nay. Vua tôi chia nhau mảnh lá nằm lót lưng giữa trời. Chỉ mong chóng đến ngŕy thiên hạ yên hàn, không biết mùi phú quý ở đâu.
-Xin đừng nói thęm những điều xót xa ấy nữa. Mình không còn ở lại được a?
-Không được nữa. Trước sau tôi cũng chỉ nói thế. Vua chủ không nghe. Thế thě tôi chỉ còn cái chết chờ đợi.
-Mình...
-Mình nghĩ thế nào? Tiếng tù và ở một ụ canh đâu đấy nổi lęn. ánh sáng trong song cửa tắt ngấm. Vòm trời và mặt nước vẫn bát ngát ánh sao nguyên như lúc nãy. Bóng Cao Lỗ lặng lẽ trở xuống bến. Chiếc thúng vẫn đậu chỗ cũ. Cao Lỗ tần ngần vào đầu thuyền. Tiếng sáo lại mơ hồ đâu xa đâu gần. Cao Lỗ buông sáo đứng lęn nhìn ra phía tường thành. Tường thành mờ mờ lẫn vào nền trời đen sẫm. Cao Lỗ ngồi xuống. Lát sau hai bàn tay Cao Lỗ uể oải thả xuống mặt nước, đẩy thuyền từ từ ra. Bến nước sau lưng đă trở lại mịt mờ. Bỗng thấy một bóng người. Bóng ai thướt tha, thanh mảnh. Tiếng hát mơ màng lại. Khăn vuông ai đội Khăn điều ai vắt vai ai Cao Lỗ gọi:
-Mình, phải mình đấy không? Cao Lỗ tất tả chèo vào lại bến. Bùi nhùi đã vung lên một vòng lửa. ánh sáng chập chờn ra khắp mép nước. Nhưng không thấy ai.
IX
Nhiều đám người lố nhố đi tới. Lũ lượt từng đŕn trâu chen nhau. Người cầm roi chạy tất tả dồn trâu vào bãi cỏ xanh mởn trước mặt. Mái hiên lợp lá gồi nhà công quán dựng cuối bãi, bên bờ sông Cái. Hôm ấy, ngày hội chọi trâu để chọn trâu thịt, nhà vua sắm sửa rước lễ rửa nỏ trên mặt thành. Các quan ra hội chọn trâu, áo chàm ống tay rộng, thắt lưng điều bỏ giọt, vai khoác nỏ, tóc búi chít ngược theo một dải khăn nâu sẫm. Trọng Thủy vái Đô Nồi:
-Tôi lại được lĩnh việc theo đức ông. Xin chỉ giáo cho. ạng Đô Nồi nói:
-Việc các nơi đem nộp trâu thịt mừng hội rửa nỏ hằng năm vẫn theo lệ, không có gě khó. Người và trâu các cõi về ùn ùn vào bãi. Trọng Thủy nói:
-Làng chạ đem trâu đến nhiều rồi kěa.
-Đấy lŕ trâu đến chọi, chưa phải trâu nộp.
-Đức ông cho chọi trâu sao?
-Tục hội trâu chọi đă có lâu nay. Trâu cõi nào thua, cõi ấy phải gánh cả lệ nộp. Trâu khỏe để làm, trâu yếu mới thịt...
-à...
-Phong tục con người, mỗi nơi khác nhau mọi nhẽ. Nước ông thi ngựa, bắn cung. Chúng tôi chọi trâu, đánh vật, đấu roi, bắn nỏ. áo chúng tôi buộc dải, khác áo khuy tết của các ông. Những nhẽ ấy cũng chỉ thói thường trong thiên hạ. Lại một đám các quan xúm xít đi tới. Những chiếc quạt lá cọ cắt khéo che lęn lẫn giữa những chiếc quạt lông đuôi công sặc sỡ với quạt lông trĩ trắng. Chỉ trông thấy chân ngựa, chân voi bước thong thả. Người trong thành đổ ra, xúm xít quanh xe, quanh kiệu, lũ lượt về xem chọi trâu. Đô Nồi nói:
-ạng ra đánh cồng cho các cői biết lệnh mà đưa trâu vào bãi. Trọng Thủy rụt rè:
-Tôi cũng chưa được học thứ bậc nổi cồng thế nào. Đô Nồi đứng dậy, nhấc chiếc důi đầu buộc núm da hổ. Một tay giơ cao chiếc cồng. Đô Nồi giọt thẳng cánh một hồi ba tiếng rồi lại trở vŕo ngồi chỗ cũ.
-Quả là tiếng cồng đức ông vang như tiếng trống trận. Đô Nồi nói:
-Đây cũng lŕ trống trận. Vào trận, cả voi cả trâu cứ nghe hiệu cồng hiệu chiêng mà tiến.
-Đức ông tŕi thật.
-Người trong thiên hạ đều tài năng trọn vẹn mà lại khác nhau. Các ông cưỡi ngựa chiến, đeo cung lớn, tên dài một sải. Trọng Thủy cười nửa miệng:
-Vâng, cung một sải...
-Bắn như mưa rào. Trọng Thủy lắc đầu:
-Nhưng không ví được với nỏ phương nam. Đô Nồi lại nói:
-Năm trước, hai nước ta cňn mắc họa binh lửa, tôi đă được biết cung tęn các ông lợi hại thế nào. Trọng Thủy nói khẽ:
-Chẳng thể đọ được với nỏ thần... nỏ thần... vâng, nỏ thần... Đô Nồi bỗng lặng yęn, chăm chắm nhěn Trọng Thủy:
-Nhưng mà... ạng là quan triều...
-Bấy nay, tôi đă được vŕo hàng thủ túc hầu vua chủ. Đô Nồi nghiêm mặt:
-Đă biết vậy thì ông không được nói như thế. Hai tiếng nỏ thần là cấm kỵ. ạng phải biết giữ miệng. Mất đầu như bỡn đấy.
-Dạ, thật quả tôi không biết, tôi không biết. Rồi Trọng Thủy ngơ ngác quay đi. Từng đŕn trâu các phía đương lũ lượt ngổn ngang tới nữa. Giữa băi đă dần dần đông nghịt những vňng người, lố nhố, nhấp nhô. Tiếng trống đồng rộn rŕng, thúc giục. Rồi tiếng cồng nổi chen tiếng trống. Trong ồn ào sôi lên, hai con trâu ra giữa bãi, có hai người trai trẻ cởi trần, đóng khố điều, khăn chŕm đầu rěu vắt vẻo ra theo. Một hiệu cồng vang rền. Hai con trâu giương cặp mắt ngầu đỏ, xô rập vŕo nhau. Tiếng reo dậy đất vang quanh băi. Những chiếc sừng trâu bóng loáng, cong vắt, khóa nhau, cọ nghiến răng rắc. Những con mắt trợn lồi, đỏ như máu. Vế chân choăi doãng ra, như cột đá. Cả mình con trâu xô lên, rõ từng sợi lông dựng ngược mồ hôi vã như tắm. Thế mà cái đuôi trâu ngắn tun hủn vẫn thản nhiên, vắt vẻo, phe phẩy như thường. Hai con trâu ngang sức đã quỳ cả hai chân trước xuống. Bốn mỏm sừng vẫn gài như buộc vào nhau. Mõm mũi đen sì tuôn rớt dãi phều ra, nhả xuống bãi, trắng như bọt bể. Mọi người nhìn hau háu, hồi hộp. Bỗng chốc, một trâu không chịu nổi sức đẩy khủng khiếp chùng cả bốn khoeo, nghiêng đầu rút sừng, cong đuôi bồn ra ngoŕi. Vó cất khấp khểnh, bước đứng bước quỵ, lảo đảo. Bốn bęn lại như sấm rền. Từng tiếng cồng thong thả. Tiếng cồng sau cùng ngân vừa dứt, tất cả các vòng người im chờ xem trâu cõi nào sắp vào bãi. Kìa hai con trâu đã hùng hục bước tới. Đi theo trâu, hai bô lão râu bạc như cước, áo nâu già, quần xắn móng lợn. Trâu Mi Linh trên đất đồi chọi với trâu kẻ bể Ninh Hải. Hai con trâu mới hung hăng, huỳnh huỵch xông vŕo nhau. ạng Đô Nồi oai nghięm đứng tręn thềm nhìn trâu chọi, tay điểm từng dùi trống. Tiếng đồng âm u rền giữa những tiếng reo cồn dậy bốn phía.
Những chiếc sừng cà vào nhau, đâm nhau, cài lại ràm rạp. Hai con trâu móp bụng thở, rớt rãi trắng nhễ nhại trên cỏ. Trâu các cõi vẫn đương đối địch nhau ngoŕi bãi. Trâu kén lấy thịt cứ từng đàn lũ lượt đi qua. Đô Nồi hất tay, bảo Trọng Thủy:
-ạng đếm, ông ra đếm. Cứ được đủ một bọn mười con thì cho dồn vào cổng thành. Đàn trâu nhông nhông bồn qua. Đô Nồi hỏi:
-Quá trăm con chưa?
-Dạ, được.
-Lệ thế đủ rồi. ạng cho trâu cői nào thắng được trở lại. Các cõi trâu chọi rầm rầm đánh trâu về. Lại tưng bừng hội hát dọc đường. Quân quan đă lui hết, chỉ còn ngựa Đô Nồi thả bước một mình vào thành. Nhưng bụng Nồi hầu đương bồn chồn, không thảnh thơi như bước chân ngựa. Chỉ vì câu hỏi lúc nãy của Trọng Thủy về nỏ thần vẫn làm ông vương vấn. Mấy năm nay, bốn phương bình yên, thế mà mỗi khi trông thấy Trọng Thủy, ông lại áy náy. Tự nhiên, nhiều người cũng như ông. Thành thử, đương vui mà cứ đâm ra phấp phỏng. ạng Đô Nồi tự hỏi: ta quá lo hay lŕ ta nghĩ không đúng. Không biết bŕn bạc với ai. Cũng không biết lựa lời nói với vua chủ thế nào. Vua chủ vốn không ưa câu nói trái ý. Cũng vì thế mà các hàng quan triều cứ dần dà một vắng vẻ. Kể ra, nói nhẽ khác, cũng là phải. Lúc bình thời, quân quan về cõi, lo đồng bãi, lo tập tành, hằng năm lại vào các hội thi tài. Thói tục phép quân và việc làng xưa nay vẫn thế. Nhưng mà, khốn thay, không phải ai ra ở cõi cũng là do an bài theo nền nếp. Nhiều người phải đi, bởi không muốn gai mắt ở lại. Bởi sợ vua chủ không muốn nghe ai nói khác. Ba anh em Phạm Chung, Phạm Túc, Phạm Hòa đã lui về mở đất ngoài ngã ba sông Cái. Các ông Đinh Toán, Đinh Công Tuấn cũng lấy cớ văn việc quân, xin ngược về quê trên ngọn nước. Anh em Cao Lỗ, Cao Tứ thình lình bỏ đi đâu không biết. Trong hŕng quan ngày nay, những người theo vua chủ từ thuở gối đất, còn trơ trọi ba bố con ông Đô Nồi. Mỗi năm hội vő, lực sĩ các nơi về đông đảo, lại kén được vŕo hàng quan nhiều người trẻ, nhưng đám quan triều cũ thì cứ ngày một lơ thơ đi, chẳng còn mấy. Mà có những hầu, những tướng ở quan đã lâu, cũng có người bực bội, có người chán nản, đâm ra ham mê rong chơi, chè chén. Mấy năm rồi mà vẫn lại chỉ bố con ông Đô Nồi giơ tay cũng đẩy ngă các hàng quan thân cận. Mỗi lần các quan vào hội thử sức, chẳng còn hào hứng đâu. Những lo lắng ngổn ngang ấy dẫn ông Đô Nồi ruổi ngựa vŕo dinh vua chủ. Đô Nồi đă kể lại với vua chủ những điều měnh nghĩ. Không thể dè dặt, phải nói hết. Vua Thục nghe, im, rồi nói:
-Thời thiên hạ rối loạn, lấy chiếc nỏ mũi tên làm trọng. Thời thái bình lấy hạt thóc ống cơm là giường mối. Các ông ra mở cõi, ta thật bụng nghĩ thế. Cốt đừng ai làm trái ta, dối ta. Bốn phương đã phẳng lặng, việc quân đã ngơi, quan quân về cày cuốc, lo tuần phòng, có chơi nhởi, say sưa cũng là điềm đất ta đă hết xao xuyến, khốn khổ. Còn như vua Triệu với ta thuở nay đã nên đôi bên thông hiếu.
Trọng Thủy được ở rể đây. Xá gě câu nói tò mò của đồ trẻ nhỏ cũng như mọi lời sàm báng sau lưng. Còn như ông đe nẹt Trọng Thủy thế là phải. Biết, chỉ có ta biết nỏ thần mà thôi. Đâu đấy tuân thủ nghięm ngặt bao năm nay vẫn thế. ạng yęn tâm về nghỉ. Đô Nồi không nói thế nŕo hơn được nữa. Con ngựa lại thong thả nhấc bước. Nhưng lňng người càng ngổn ngang nặng trĩu. Rồi chẳng bao lâu đã đến ngày hội rửa nỏ. Thuyền mảng người đi xem chen nhau ghé các bến quanh hào, cạnh dải bờ tre bao bọc tường thành. ở đôi chỗ trống, trông ra thấy dòng sông vươn mình đỏ ngầu. Trên mặt nước, những chiếc thuyền thúng tròng trành, người ngồi thả hai bàn tay, nhẹ nhàng chém nước. Những chiếc độc mộc đuôi cong mũi nhọn, mỗi bęn mạn có tới năm mươi tay khoan thai chčo. Giữa thuyền, một ông già đứng, râu trắng bạc phơ bay bay. Trên tấm khố lục, khoác chiếc áo năm thân không dải, tay cầm hai thành xênh trúc. Tiếng xênh rộn rã nhịp cho các tay thoai thoải chèo. Trọng Thủy tựa cửa, đăm đăm nhěn ra mặt nước nhộn nhịp thuyền đổ người vŕo các bến cổng thành. Dòng sông cũng đương miên man đưa Trọng Thủy nghĩ lại về ngày ra đi. Tính đốt ngón tay, chốc đă bao năm rồi. Trọng Thủy nhớ lời cha dặn. Cái nhớ ấy vẫn nhớ. Nhưng quả thật có đậm có nhạt nổi chěm mỗi lúc. Có khi bối rối. Có khi lặng lờ. Nhưng mà nhớ vẫn nhớ.
-Con ơi! Đến chết cũng không nhắm được mắt.
-Vài năm nữa, dân tình nguôi nguôi cái sợ, ta lại mộ quân, luyện binh.
-Sức người chọi với thần thì bằng đem trứng chọi đá. Không được.
-...
-Bao nhiêu đêm nay, cứ nửa đêm ta ra nhìn trời, bỗng thấy phải hẵng khoan việc binh.
-...
-Không còn việc cánh cung, mà là việc đầu lưỡi. Chước này phải biết luỵ.
-Nhưng vua Thục đă rõ ta cạn quân rồi.
-Chim sẻ chim ri làm sao biết được chí chim hộc, chim hồng. Cái khó này chỉ mỗi một mình con gỡ được.
-Xin lĩnh mệnh cha. Trọng Thủy vẫn đương bồi hồi nhớ lại. Nét mặt đau đớn sa sầm, có lúc tái ngắt. Có lúc tự dưng Trọng Thủy giơ tay sờ lên lằn khăn trên đầu rồi cúi nhìn tấm áo nhuộm vỏ dà rộng thùng thình. áo đất Kẻ Chủ mặc đă bao năm. Cũng bằng người ở đây rồi. Bất giác, Trọng Thủy thở dŕi, nặng nề não nuột cúi mặt xuống. Mỵ Châu nhấc mành bước ra. Trọng Thủy dường như không biết. Trọng Thủy vẫn mải nhìn ra dòng sông. Lại nghĩ đến những năm tháng đôi vợ chồng trẻ... Nghĩ đến lẫn lộn, hoảng hốt. Trọng Thủy giật měnh, nhìn Mỵ Châu. Mỵ Châu không để ý, bước tới.
-Mình chưa đi hầu à? Trọng Thủy bình tĩnh lại, lơ đãng:
-Chưa nghe tiếng chiêng mở cổng thành mà. Mỵ Châu cười:
-Chiêng nổi mấy hồi rồi kia. Trọng Thủy giảng giải:
-Đấy lŕ chiêng giục nhấc rào cho thuyền các vạn ngoài sông vào. Sau mới đến lượt chiêng mở cổng thành cho các cõi xem hội. Mỵ Châu nói:
-Mình nhớ lệ quá. Trọng Thủy đếm ngón tay:
-Tám năm, ờ, tám năm rồi. Mỵ Châu ngơ ngác:
-Mình sốt ruột a? Phải đếm từng năm a? Trọng Thủy không nhěn Mỵ Châu, nói:
-Vợ chồng chỉ có một đời, lŕm gì có từng năm mà đếm được, tôi không... Giữa lúc ấy, dưới chân lầu, ngân ngư nổi một hồi trống. Tiếng đồng âm vang dŕi xa mãi tận đằng kia. Mỵ Châu nói:
-Trống rước vua cha lên thành đấy. Mình ra theo hầu người đi. Trọng Thủy bước xuống thềm, men theo một dãy tường phủ những dây móng rồng lá xanh dày. Cánh hoa móng rồng vàng muốt, cong cong như ngón tay búp măng. Những con sáo mỏ ngà đậu trên cành trúc trước mặt. Cả khoảng vườn đan thành chiếc lồng lớn, khiến cho sáo trong lồng ngỡ nhởn nhơ trong cây. Thấy bóng người, hai con chim sáo bay đến bụi trúc, cất tiếng nói:
-Nhà có khách! Nhà có khách! Khách! Khách! Cả đàn chim sáo trong cây ríu rít nói theo: Nhà có khách! Nhà có khách! Trọng Thủy xăm xăm tới, mắm môi, kiễng chân, với tay lęn đập mạnh một cái. Cả mấy con sáo rơi xuống đất. ở trong nhŕ chạy ra, Mỵ Châu kêu lên:
-Sao bỗng dưng giết chim thế? Trọng Thủy hằm hằm nói:
-Ta là chủ, ta là chủ... Mỵ Châu ngậm ngùi nhìn xác chim:
-Tội con chim học nói thôi. Hội rửa nỏ ngoài kia đã đương nhộn nhịp khắp đất Kẻ Chủ.
Chỉ còn có một mình Mỵ Châu ngẩn ngơ đứng đấy thương con chim chết. Người các nơi vào thành, mỗi lúc một đông. Mỗi nhà các làng ven nội đến các trường, nhà nào cũng làm cỗ cúng. Những thúng xôi trắng, xôi gấc, những vò rượu, mâm oản, rồi cả tảng thịt trâu thui, cả con lợn thui. Lại từng mẹt trầu không, cau tươi, một cây vỏ ăn trầu đỏ lịm dựng giữa ngă ba đường. Người đi qua nhặt ăn một khẩu trầu cho ấm miệng. Những bó hương đen nhả khói ngŕo ngạt. Đường cái bộn những người. Giữa ban ngŕy mà chốc lại thấy một bọn vác ngang cây liệu trên vai. Đuốc cháy, lửa phừn phựt, khói tuôn nghi ngút. Bọn ấy đă đi suốt sáng từ nơi xa về. Từng đám tụ lại các ngă ba ngã tư, nhường đường cho những toán quân rầm rộ trảy từ bốn phía chân thành vào. Những con ngựa chiến cao lớn bước nối nhau. Bộ cương bằng thừng nhuộm điều quấn quanh cổ, vòng xuống tận khấu đuôi. Những hàng quân đeo nỏ ngồi ngay chăm chắm tręn lưng ngựa. Người nào cũng mình trần lưng ngực nổi vết xăm chàm vằn vèo. Hai cánh nỏ như hai tán quạt, thân nỏ dài đến mười đốt trúc. Một vai khoác ống tęn che dưới lá khiên ken mây. Ngựa thong thả bước một, cứ nghe hồi cồng lại cất vó chồm lên. Rồi những thớt voi trận thủng thỉnh tới. Con voi gồ ghề như tảng đá. Trên đầu voi, người quản tượng ngồi vắt vẻo, cởi trần trùng trục, cũng khoác nỏ như quân cưỡi ngựa. Một tay quản tượng cầm chiếc vồ gõ một hồi chiêng xong rồi thẳng cánh bổ xuống đầu voi. Những con voi đương thủng thỉnh bỗng cất vňi, bồn vào làn bụi mù mịt. Ngoài cổng thành, thuyền mảng đậu chi chít như trải chiếu trên mặt nước liền vào tận chân cầu. Người chen nhau lên bến. Các cụ lão ông mặt đỏ như gấc, áo cởi phanh tơi tả, nghênh ngang như vừa ở đám cỗ bước ra theo con cháu đi hội. Các lăo bà, chân đất, váy chàm. Các cô váy điều, váy hoa hiên tươi màu mở ra từng nếp. Trên khăn vuông, dải yếm, thắt lưng buộc theo những chiếc lông đuôi công tím biếc, lông trĩ trắng, lông chim trả hồng. Các cô nŕng đi như có hoa rắc theo, như có đŕn bướm giỡn lỏa tỏa quanh. Bọn người đương đi tręn các ngả đường bị các đŕn voi, đŕn ngựa đẩy dồn lại, đứng bối rối, luống cuống chưa biết đi lęn thế nào, lại thấy mỗi lúc mỗi đông những ông quan võ oai vệ áo giáp da trâu nhuộm lục che ngực, đai lưng thắt khóa đồng, tay cầm rěu đồng bước oai nghięm. Người sấn đến xem lại phải giật lůi, giạt sang hai bên. Vừa có tiếng cồng rước vua chủ trong thành đi tới. Hai hàng đôi bên xách cồng là những cô gái vấn khăn chằm ngược, váy xắn cao.
Đội cồng dẹp đường cho vua chủ ra. Vua Thục mặc tấm áo vóc đỏ, buộc dải lụa. Voi đi giữa hai hŕng quạt vả lông trĩ sặc sỡ che xuống hai bên bành voi. Quản tượng ngồi trước, giơ chiếc vồ gỗ tròn thu lu. Đằng sau, đến đám ngựa các quan rồi lại tiếp một lũ voi thồ. Tręn lưng mỗi voi đặt cả chục cảnh rượu rửa nỏ. Người quản tượng quay lại cầm mảnh vải điều phủ xuống miệng những chiếc cảnh cao. Một con voi khięng mâm chõng xôi trắng đơm đầy ngọn. Tręn bày nguyên một con lợn thui. Quản tượng voi ấy đứng trên lưng voi cạnh chõng xôi ngự. Rồi đến một hàng ngựa quân hầu. Có người ôm trên tay một con gà chọi, đuôi dài lê thê. Lại một đoàn long đình tiến ra. Những chiếc kiệu che vải điều, tám người khiêng. Những chiếc xe trâu kéo bọc da gẫu đen tuyền, da báo loang lổ. Phân rõ ngôi thứ vợ vua, con vua. Lại những người khiêng chiếc kiệu gỗ che vải chàm, trên xếp cảnh rượu, mâm xôi, mâm thịt lợn thui, lợn luộc có cô nàng hầu ngồi ghé cầm quạt lá cọ che. Một ông quan lạc cưỡi ngựa đi đóng đám. ạng quan nhấc tů và khoác bên vai, nhìn lại quãng đường vừa đi qua, cất tiếng ốc gióng giả một hồi dŕi. Người hai bên đường ồ ra, ùn ùn chạy theo. Tiếng reo lẫn trong tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng trống đồng. Khói cây đěnh liệu cả giữa ban ngày vẫn lên ngùn ngụt. Từ mặt nước vào chân thành, vào các phường cứ đông ghế người lên. Những túp lều, những quán tre, không biết nhà ai, chòm nào phường nào mới dựng, chỉ sơ sài có mấy chiếc cọc trống mà cũng bộn người ngồi ăn trầu vŕ từng bọn đứng hát xúm quanh. Bęn kia, gió thổi ngả nghiêng bờ tre. Đông người quá. Những đŕn bò trong bụi tre sợ đến vỡ tổ, bay hối hả qua mặt nước. Trên thành, suốt bốn mặt, dãy thềm đá đặt nỏ chạy dŕi sang tận góc đằng kia. Có đến hàng nghìn tay nỏ đã túc trực. Sau bệ, những đống trầm hương, đống quế được chất lęn như gò củi. Khói nghi ngút thơm lừng. Mỗi quãng có một lực sĩ, tay cầm dựng cây đuốc. Lửa lên ngọn rừng rực giữa ban ngày. Ken quanh từng quãng đuốc, những cô gái đội cồng nghiêng người khoan thai giơ tay cầm dùi nghiêm trang gõ cổng. Những chiếc lông trĩ ngũ sắc óng ánh được gài vào đuôi mũi tên đã đặt lên mỗi máng nỏ. Bao nhiêu tay nỏ khố chàm cởi áo buộc xuống thắt lưng, lưng người nào cũng to một ôm như tượng đá. Mỗi tay quỳ một gối bên cánh nỏ. Hai mắt chăm chắm, đợi lệnh. Trước gối mỗi người đặt một cái kỷ. Tręn mặt kỷ, lót tầu lá chuối, lù lù một đấu xôi nếp tím thẫm. Trên mỗi đấu xôi úp ngược bày một con gà luộc. Những mâm xôi trắng đầy có ngọn, cả con lợn thui vàng sẫm đặt tręn mặt xôi. Vua Thục đứng giữa thềm đá tręn mặt thành. Vua Thục cầm một sừng trâu rượu giơ lên. Tiếng cồng rền theo tay rượu. Các tay nỏ bốn mặt thành vùng phất dậy, rút chiếc sừng trâu giắt bên lưng, nhấc quai cảnh rượu đặt cạnh bệ, đổ đầy một sừng, rồi quỳ xuống. Trong tiếng cồng đánh đổ hồi, mỗi người dốc ngược sừng rượu vŕo giữa thân nỏ. Những chiếc vạc đồng đun rượu bắc tręn những tảng đá. Lửa củi đỏ rực. Rượu hâm lại đă sôi sùng sục. Các cô đội cồng đến vục chiếc liễn sŕnh da lươn vào múc rượu nóng, đem ra đổ vŕo từng sừng rượu cho các tay đô lŕm lễ rửa nỏ. Tiếng cồng nổi vang. Suốt chân thành, rung chuyển tiếng ngựa hí, tiếng voi gầm. Trọng Thủy chạy đến trước mặt vua Thục, quỳ phủ phục. Vua Thục ngước nhìn ra. Vua Thục xắn áo, với tay cầm một chiếc lao trúc, bước lại đầu tường thŕnh. Ngọn lao buộc một túm lông chim trĩ màu rực rỡ phóng bay lên rồi rơi xuống mặt nước dưới kia. Như quả còn đuôi lua tua các màu cầu vồng. Lệnh cho nỏ bắn đã ban ra. Các mặt thành đã nhìn thấy mũi tên lông trĩ vua chủ ném xuống. Quân reo rầm rầm trong tiếng dây nỏ bật. Tên bay chíu chít, mặt sông bóng mờ như sương phủ. Những đàn ống bương lệnh nổ như sấm. Một ông lạc tướng, tay cầm dùi, tay giơ chiếc chiêng đại. Quang cảnh càng uy nghi, dồn dập. Tiếng chiêng rền vang. Lại một ông quan võ cầm chiêng lên. Tiếng chiêng nối tiếp, làm lệnh cho các làn nỏ bắn ra. Từng khoảng trên tường thành, mỗi khi nổi tiếng chiêng lệnh, nét mặt, ánh mắt quân quan lại kiêu hãnh nhìn nhau. Trọng Thủy quỳ rạp trước vua Thục:
-Xin vua chủ cho lệnh.
Lúc ấy, có những con mắt trợn ngược dưới làn trán díu nhìn sang Trọng Thủy rồi lại quay ngoắt đi. Chiêng vẫn rền vang. Những tay nỏ thoăn thoắt rút tên trong ống, tì thân nỏ trên tấm ngực trần, thả chiếc tên vào máng, làn cây bật liên tiếp theo nhịp chiêng thúc. Những mũi tên lủa tủa nối nhau đến lóa mắt, xám trắng như bụi, như khói, lan mờ trên mặt nước. Tiếng người reo, tiếng ngựa hí. Hội rửa nỏ rầm rộ nhất khi đến những quãng chiêng thúc nỏ bắn dồn dập này. Vua Thục oai phong đứng giữa bao nhiêu rộn rã, tiếng quan sôi nổi bốn bề. Nhớ lại, những cái lo, cái ngại, cái nghi của anh em Đô Lỗ, lúc này cứ làm lửa giận bừng bừng. Cả nghìn voi ngựa vào trận, cả vạn tay nỏ một lúc bật cánh, đến mặt trăng cũng phải thủng. Uy dũng nhường kia mà chúng họ vẫn ngơ ngác thảng thốt như ngày còn bơ vơ trốn lủi ngoài nghìn dặm, phải nhổ nước bọt đánh dấu đi nhanh đi chậm. Thủ túc ta bạc nhược quá rồi. Phải đâu ta sao nhăng việc quân. Không, quanh năm ta đi tuần thú cői ngoài, lặn lội đến những nơi thật hiểm, bây giờ vẫn như ngày trước. Việc quân, việc đồng bãi. Kho tàng, binh lương lúc nào cũng ăm ắp. Mũi giáo, mũi lao, lưỡi rìu, tên ba cạnh múi khế, áo giáp da trâu đủ dùng mười cõi. Đâu đấy nghięm ngặt ngày đêm sẵn sàng. Ai chểnh mảng, khác mắt, bất kể người ngồi chiếu nào, đều phải chịu tội phạt trượng rồi điệu xuống lŕm quân vào rừng bắt voi, bắt ngựa. Chẳng một lúc ta ngơi tay, ngơi nghỉ đâu. Mới cả tháng vừa rồi, ra ngồi thuyền xem quân thủy luyện nỏ suốt cửa sông Cái, rồi về thẳng đây dự hội rửa nỏ này. Giận thay, giận thay. Chân tay ta có người đã thảng thốt, mỏi mệt mất rồi. Nhưng ta thì không. Vua Thục cứ vừa đăm chięu lại vừa hào hứng nghĩ thế. Quân trên các mặt thành trảy xuống các đường vòng thành gập ghềnh, cuồn cuộn. Tan lễ rửa nỏ ở đây, hội bắt đầu về các phường ra tới ven nội. Suốt đęm ba mươi, cơ chừng trời đất Kẻ Nhồi, Kẻ Vang, Kẻ Chủ nŕy thành sáng trăng đến sáng. Đô Nồi bước tới trước mặt vua chủ. Vua chủ hỏi:
-ạng chưa về hội vui trong thành, còn ở đây làm gì? Đô Nồi nhìn vua chủ vẫn đương ngoảnh mặt ra ngắm những đoŕn quân rầm rộ xuống bậc thành quanh co, rào rào như nước lũ réo. Tiếng chiêng hội đã nổi rền lan khắp các phường xa xa. Đô Nồi bỗng xẵng giọng, hằm hằm nói:
-Hết người rồi sao, cả lớp quan lạc vừa tuyển hội võ năm nay không được người nŕo sao mà vua chủ lại để đứa con tin vŕo dâng lời xin mở lễ rửa nỏ! Vua Thục quay lại nhìn Đô Nồi, như ngạc nhiên về câu nói bộc trực. Tiếng vua Thục bỗng vang như chiêng gióng:
-Chỉ quanh quẩn những tiểu tiết vặt vãnh ấy, thế thì làm tướng lo đại sự thế nŕo! ạng đă biết rồi, đến đęm nay mới là chính lễ rửa nỏ thần. Một mình ta sắp lên thành cấm, chỉ có một mình ta với trời đất trên thành cấm. Đấy mới là việc trọng nhất cõi. Mà ông không được nói xàm. Trọng Thủy nay là người trong nhà... Rồi vua Thục nghiêm mặt:
-Ra ngay! Đô Nồi cúi mặt, bước lůi. Đęm ấy, gọi hai tướng Đống, tướng Vực đến. ạng Đô Nồi khóc mŕ nói:
-Vua chủ ta lẫn lộn mất rồi. Trong thành Kẻ Chủ vẫn đương hội vui. Hôm sau, vợ chồng con cái ông Đô Nồi trở về Chięm Trạch.
X
Những đám vui hội rửa nỏ vẫn rộn khắp các phường, các lŕng, trên các bến và từng nhà. Trong nhà Trọng Thủy đầy vẻ tết nhất. Các nàng hầu đốt những thỏi hương bột Yên Tử trộn nhụy hoa móng rồng, hoa lan, hoa quế. Cây hương to bằng chiếc đũa, gài khắp trên lầu, dưới nhà, trước cửa. Các vách thơm ngát suốt ngày đêm. Trời vừa tối. Hai cây đình liệu toàn vầu cao ngang ngọn đa dựng trước sân, sáng ra tận ngoài vườn rậm rạp những tầng cây lá ken chồng lên nhau. Những con vẹt nuôi làm cảnh, thấy sáng rực, chợt thức giấc. Cả đŕn lần cành trúc ra đứng vắt vẻo, nghé nghiêng nhìn xuống ánh lửa. Từ ngoài vườn vào, không còn trông thấy quãng tường đất mọi khi. Chiếu trắng, chiếu liền, chiếu đôi, chiếu hoa nối nhau từ cổng tới giữa nhŕ. Khách đă ngồi kín hiên trong, đám quan hầu cňn chầu chực hiên ngoài, đợi trải thêm những đôi chiếu mới. Mỗi đôi chiếu khách vừa trải ngay ngắn lại có những cô nŕng hầu óng ả, khúm núm đến đứng đợi sai bảo. Trọng Thủy cůng Mỵ Châu ngồi trên hai chiếc chiếu miến giữa hiên trong. Bọn nàng hầu xúm xít quanh. Sau lưng Mỵ Châu, Tàm cầm chiếc quạt lông trĩ trắng. Thỉnh thoảng, phẩy lấy lệ một cái. Ngoài sân, càng rộn rã hơn. Chẳng phải chỉ ở đây, đęm vui náo nức tất cả các nhà. Tiếng trống, tiếng hát, dập dìu những đám người trong phường ra múa hát vừa đi qua ngoŕi đường, không biết vui chân sắp bước vŕo nhà ai. Những núm chiêng rung lên cả giàn. Các ngã ba, ngã năm hội lại từng bọn trai gái, cổ tay cổ chân buộc nhạc đồng đụng nhau reo lắc rắc. Phách trúc gő nhịp giòn tan cho bước múa càng thoăn thoắt mŕ êm ru. Tiếng sáo ống xương trâu nỉ non. Tiếng sáo xương voi rền rền thầm thì. Một đám -thổi kèn bè, đi vung vẩy. Những ống khèn phập phồng như tiếng mưa rào đầu mùa đằng xa đương chạy lại. Nhưng phải kể đám chięng ở chiếu rượu cần ngoài dinh nhà vợ chồng Trọng Thủy vui nhất hội. Bộ cồng mười hai chiếc dàn ra quanh vườn rồi xáp dần lại theo nhịp dưới ánh những cây đình liệu củi gỗ thông thơm ngan ngát. Các cô tố nữ vào chiêng, váy nghiêng hàm ếch, mắt phượng long lanh. Mỗi chiêng lên một giọng. Chiêng dàm bước ra cầm nhịp. Một cô óng ả nhất được cụ lão ông cao tuổi trong đám mời lên mở hàng chiêng. Cô gái đẹp buông hờ chiếc dùi bọc tơ vào núm. Chiêng dàm nổi cho chiêng đúm, chiêng boòng khởi đầu đánh vŕo đôi. Bốn tiếng qua lại tíu tít. Chốc chốc, một hồi chiêng khõ nhịp nhàng lại đưa giọng chiêng chót lanh lảnh chen vào. Tiếng đồng rộn rực, náo nức vây quanh các chiếu rượu cần trải xít liền mép. Mỵ Châu bước ra chiếu đầu, giơ sừng lęn. Mười cong rượu, mười cụ lão ông tóc bạc đứng cầm trịch ao nước lã vào cong. Chiếu bên đã có mười cô gái nhấc sẵn cảnh rượu đổ vào bày ra cuộc uống mới. Bên trai bên gái vít cái cần trúc xương gà loàn loạt. Một lúc, ngót trăm con người uống cầu vồng cần trúc vừa hút rượu, vừa đưa mắt nhěn đôi bęn giữa tiếng sừng trâu rót nước vào làm ngữ. Chiêng mỗi lúc đổ hồi càng ríu tiếng, giục giã. Chiêng dứt. Những người mới hớn hở ngồi vào chiếu thay người uống thua. Lại vờn lên tiếng hát mời. Ngoài kia, đám chơi la liệt quanh những chiếu cỗ. Những mâm bánh dày, cơm lam, những tảng thịt dê, thịt ba ba nướng, những hũ bỗng gừng chiết ra từng bát đàn bày trên mảnh phên lót lá chuối, rõ mồn một dưới ánh đuốc. Một phường xoan ở đâu tạt chân vŕo. Vừa nhác mắt nhìn xống áo đã biết họ xoan này gốc bên kia sông Cái. Cỗ trống buộc dây da dê đeo lęn cổ. ạng trùm chít khăn điều, bước nghięng ngả. Không biết ông bước say hay bước điệu cho nhịp xuống důi giáo trống, giáo pháp. Trong thành ngoài nội Kẻ Chủ thức hội suốt sáng. Những nàng hầu đội lên từng thúng xôi đã dỡ ra chiếc mâm chõng, mâm đồng, trên đặt hàng xếp bát đàn. Các quan hầu cắp rổ đưa lên từng tảng thịt trâu. Đằng kia, dưới gốc cây xoan đŕo, lửa thui trâu vẫn đương bůng bùng thổi thốc ngược những tàu cau, tàu chuối quanh đấy. Bãi cỏ ngoài, hàng gông than đã được đỡ xuống. Những đống than hồng lên lò đỏ hon hỏn. Từng xâu cá anh vũ như những thỏi bạc kẹp vào cả dãy xiên trúc. Mùi cá nướng thơm phức một vùng. Trọng Thủy nhìn Mỵ Châu:
-Trông mình vẻ không được vui? Phải vậy không? Kìa phường xoan Chu Diên đã lên rồi. Mỵ Châu như cười gượng, không nói, nhìn ra phường xoan. Trai gái đã vào đứng kín đầu vườn. Một người trai bước lęn mấy bước, cầm phách múa. Bốn cô nàng hát:
-› vậy!
-Sêu!
-Tôi bước chân vào giáo trống Tìm đến thượng chúc cho mình Năm trống cơm thiên hạ thái bình Năm trống cơm mọi nhà no đủ Ngày thảnh thơi già trẻ nhởn nhơ Đêm thanh vắng gái trai tơ tưởng ........ Kính lạy chiềng làng
Phường hát các nơi càng đến đông. Cả những phường ở đám khác tới. Cuộc hát mới lại nhộn nhịp giong qua các nhŕ hội đám, réo rắt từng lŕn giáo trống, giáo pháp. Rồi các điệu quả cách nhộn nhịp. Cho tới khuya, phường mới ganh đua mời lục đến những điệu múa, giọng hát khó nhất, công phu nhất. Nŕo bỏ bộ, nào điệu xin hoa cài hoa, nào giã cá bắt cá, mỗi chạ một điệu vẻ... Trọng Thủy lại hỏi, như có ý làm vui cho Mỵ Châu:
-Ban trưa, có nghe tiếng chiêng tôi đánh trên thành? Mỵ Châu mủm mỉm, gật đầu:
-Tiếng chiêng tôi có lẫm liệt bằng tiếng chiêng lệnh ngày trước của Cao Lỗ không? Mỵ Châu lắc đầu:
-Không nhớ! Trọng Thủy ra ý không bằng lòng:
-Nghe tiếng chiêng tôi vang bằng tiếng chiêng các quan triều không? Mỵ Châu nói:
-Mình đã là quan triều, tiếng chiêng phải bằng như chiêng các quan rồi. Lại một đám trai gái đánh sęnh trúc ở đâu tiến ra. Hát rằng: Cỏ non gặm ngựa đá Núi gác xuống mặt trời Con trẻ nghe nực cười Người già buồn ngẫm nỗi Sao hôm đuổi sao mai Bao giờ đuổi được sao mai Hát xong, đám phường ấy lại thoắt ra ngay. Trọng Thủy cau mặt, nghe câu hát. Rồi lại nhác mắt nhěn thoáng Mỵ Châu, băn khoăn.
-Dường như mình vẫn không vui. Có điều gě thế? Mỵ Châu nói:
-Tôi nghe các nàng hầu về kể trông thấy giữa hàng quân nghiêm ngặt rửa nỏ, mà lại nhiều người quây bên cạnh đám chọi gà. Xưa nay không có chểnh mảng thế bao giờ.
-Ha ha, vì vậy mà không vui! Chọi gà là phải thôi.
-Bảo phải là thế nào. Đem trò trẻ nhỏ bẫy cuốc vào giữa việc quân được sao?
-Tám cõi ta bình yên đã lâu, được thuở việc quân nhàn rỗi, vua chủ mới cho phép thiên hạ được thảnh thơi. Cũng là làm vui tuổi già của người mà. Mỵ Châu lơ đãng, lặng im. Trọng Thủy lại nói:
-Quân ta dũng mãnh như hổ, nỏ các cõi bắn ra ghê gớm đến thế, cơn cớ gì mà quá lo. Mỵ Châu khẽ lắc đầu:
-Chưa phải thế là mạnh nhất đâu.
-Mình nói sao?
-Thôi chẳng trở về chuyện ngày trước nữa.
-Vợ chồng bấy lâu mà còn có điều chưa hết lòng à?
-Bánh xe quân Tần đi qua đă khô vết máu rồi. Không muốn nhớ những oán hờn thuở nào. Kìa lại phường hát Mi Linh đến. Một đám cô nŕng bước ra. Tiếng nhạc rung nhẹ quanh cườm tay. Trọng Thủy cúi đầu, thẫn thờ, buồn rũ. Mỵ Châu khẽ nói:
-Việc gì mà nghĩ ngợi!
-Có điều phải nghĩ, bởi vẫn không tin nhau.
-Ai?
-Mình không tin tôi.
-Đă gửi thân cho nhau, còn điều gì tin hơn nữa!
-Thế mà có câu vẫn chưa nói. Trọng Thủy nhìn vào mắt Mỵ Châu:
-Tôi đánh chięng lệnh cho nỏ bắn như mưa rào mà mình bảo còn chưa đủ mạnh, không hiểu thế là thế nào. Mỵ Châu cười hồn nhiên:
-Thật đấy. Nỏ thần của vua cha mới lŕ mạnh nhất thiên hạ. Đêm nay, vua cha lên thành cấm làm lễ rửa nỏ thần. Chỉ một mình vua cha...
Có trông thấy ánh đuốc rực từ trong cung ra ngoŕi chợ lên thành cấm đấy. Trọng Thủy vẫn nhớ câu Đô Nồi mắng hôm trước. Trọng Thủy thoáng đưa mắt nhěn xung quanh, "à" một tiếng khẽ rồi im lặng. Tàm đương ngồi hầu quạt, bỗng dưng để rơi chiếc quạt vả lông trĩ xuống lưng Mỵ Châu. Mỵ Châu quay lại, chau mŕy. Chợt gặp đôi mắt Tàm nhìn. Đôi mắt Tàm đăm đăm, lạ lůng, ngơ ngác. Mỵ Châu lặng lẽ vuốt mép tà áo khép nép, e ngại. Phường hát Chu Diên lúc nãy lại trở lại. ... Cỏ non gặm ngựa đá Con trẻ nghe nực cười Sao hôm đuổi sao mai... Bao giờ đuổi được sao mai... Trọng Thủy chau mày, hất tay:
-Lại cái phường hát nhảm. Cho lui ngay! Phường hát bặt im, lùi ra. Nửa đêm, khách khứa đã thưa thớt ra về. Trọng Thủy và Mỵ Châu nhìn ra ngoài song, trăng sáng lồng lộng mặt nước. Chỉ còn có hai vợ chồng ngồi đấy. Trọng Thủy nói:
-Ngày trước, đă nghe nói vua cha có nỏ thần, thiêng lắm. Từ khi được làm con cái trong nhà, hằng năm đi hội rửa nỏ, thấy quân gia ta bắn giỏi thế, cứ ngỡ đấy lŕ những tay nỏ thần rồi. Mỵ Châu nói:
-Không, nỏ thần trên thành cấm không ai được biết. Không ai được nói đến. Měnh phải nhớ mà kiêng thế.
-à.. Đây chỉ có vợ chồng ta. Mỵ Châu ngẩn ngơ hỏi:
-Có phải mình nghĩ điều tôi còn giấu mình là điều ấy? Trọng Thủy cười, nói sang chuyện khác.
-Không, chỉ nghĩ tám cõi đã yên, nỏ thần cũng được nghỉ ngơi rồi. Cho nên mới có đám chọi gà. Mỵ Châu tủm tỉm gượng cười. Rồi hai người nhìn nhau, cùng tươi nét mặt. Ai biết được mỗi vẻ một niềm vui có chiều khác nhau. Mỵ Châu trỏ tay ra ngoài trời trăng sáng lồng lộng.
-Đố měnh ngọn núi xanh xanh trong bóng trăng kia...
-Núi Ba Vì, tôi biết rồi.
-Không phải, núi Ba Vì bên kia sông, núi đây bên này sông. Sự tích núi Ba Vì cũng hay lắm. Nhưng phải gọi cái Tàm ra kể mới hay. Trọng Thủy đăm đăm nhěn ngọn núi xanh đen, bóng cắt lęn nền trời. Trọng Thủy mải ngắm dáng núi đẹp. Lát sau, Trọng Thủy nói:
-Tôi cũng biết sự tích núi này rồi. Bao nhiêu năm nước dâng núi đổ cũng không ai cňn nhớ, người đời chỉ kể lại chuyện người trai ở núi được Mỵ Nương thôi. Mỵ Châu cười vui.
Rồi một hôm, Mỵ Châu đưa Trọng Thủy lęn chơi thành cấm. Bọn gia nhân sửa soạn ngựa. Hai người đứng đợi ngoŕi hiên, nhìn mặt sông từ bến ra xa. Quanh nhà, dây hoa lý lá xanh hoa vàng hây, chỗ nào cũng thơm thơm phảng phất. Trong bụi trúc, đàn chim bạc má ríu rít. Trên một cành trúc gác ngang giữa rặng hoa, có đến mười mấy con vẹt mỏ đỏ tía. Vẹt đương đůa nghịch lộn lên lộn xuống, vẹt khoặp mỏ nghiến khoanh trúc cọt kẹt. Từ độ Trọng Thủy đánh chết hai con sáo, người hầu đă thả hết sáo, không dám nuôi sáo nữa. Chỉ còn lại vẹt. Mấy con vẹt thấy có người vào vườn, đẩy nhau chuyền ra đầu cŕnh
-như tưởng người vẫn đưa chuối vŕo cho ăn. Trọng Thủy ngẩng mặt ngắm nghía con vẹt lưng mỡ mŕng xanh biếc, mỏ đỏ thắm, đỏ tía. Bỗng cả đŕn vẹt cùng kêu:
-Vẹt! Vẹt! Khách! Khách!
-Khách! Khách!
-Khách! Khách! Trọng Thủy rùng mình. Trọng Thủy lia ngọn roi ngựa lên. Mấy con vẹt lăn xuống đất, giăy đŕnh đạch. Mỵ Châu ôm hai tay lęn mặt. Trọng Thủy hét to:
-Đứa nŕo dạy những con vẹt nói nhảm thế? Không có tiếng đáp. Chỉ thấy một người lính giữ ngựa lẳng lặng bước ra. Như không trông thấy những con vẹt chết, người lính lůi lũi dắt hai con ngựa ra cổng. Lát sau, Trọng Thủy và Mỵ Châu thong dong sóng đôi ngựa. Mỗi lúc, trông thấy thành cấm sừng sững ngang trên mắt. Trọng Thủy vẫn im từ nãy, mặt trắng nhệch
-như hãi sợ, như giận dữ. Mỵ Châu cũng im lìm e ngại. Lát sau, Mỵ Châu chợt nhìn sang, thấy Trọng Thủy đã hớn hở trỏ tay ra trước mặt:
-Trông trên sông vui quá kìa. Không biết Trọng Thủy đổi vui từ lúc nào. Nhưng thấy Trọng Thủy không ủ rũ nữa, Mỵ Châu cũng dìu dịu nỗi băn khoăn. Nắng đă hoe trên ngọn tre. Ngoài sông, chiếc thuyền thúng xúc cá đang lờ lững quanh xoáy nước. Mặt nước im sóng phẳng lì. Lác đác chiếc lá trang, lá súng tròn xoe, xanh rợn. Hoa súng cánh trắng, đŕi tím nở toẽ trên làn nước. Một con rùa nổi lên, bơi quanh chiếc hoa súng. Rồi con rùa đặt hai chân trước lên mặt chiếc lá trang, nghển đầu nhìn về phía chân thành. Có hai bóng ngựa đương đi tới. Trọng Thủy xuống ngựa rồi quay lại đỡ Mỵ Châu xuống. Trọng Thủy vắt thừng cương vào chân tre, chiếc ngựa đứng lại đấy. Mỵ Châu đeo tręn vai chiếc tay nải từ nhà mang đi. Hai người bước những bậc đá lęn mặt thành. Bậc vòng quanh, mỗi lúc một gập ghềnh. Đường thành phía này đã bao năm mất lối đi. Cỏ tranh trổ cao ngang đầu.
Mỗi bước, Trọng Thủy phải gạt cỏ rồi dắt Mỵ Châu lên. Có những chỗ rậm lòa xòa. Cả những búi mây gai chằng chịt. Đến một khuỷu đường nhô lęn tảng đá to. Hai người ngồi nghỉ, nhěn ra ngoài kia. Trên sông, chiếc thuyền thúng xúc cá vẫn xoay quanh xoáy nước. Người ngồi thúng thả xuống những chiếc lờ buộc đá. Một chiếc lờ khác được nhấc lęn. Trong lờ, con cá anh vũ hay cá chép không biết, trắng loáng quẫy thò đuôi ra ngoài. Người thả lờ quơ lấy, ném cá vào khoang rồi lại buông xuống chiếc lờ khác. Giữa đám lá trang phẳng lặng, con rùa nghển đầu nhìn xa xa. Những cảnh đẹp mắt từ trên cao nhìn xuống đã làm hai người quên hẳn chuyện buồn vẩn vơ về những con vẹt bị đập chết lúc nãy. Một lát, Mỵ Châu níu tay áo Trọng Thủy:
-Này, cái gì ngoài sông.
-Có bọn chài đương thả lờ.
-Không, cái gì kia?
-Mình trông thấy thế nào?
-Có con rùa đương nhìn về phía ta, cái đầu nó lắc lư. Trọng Thủy ngơ ngác:
-Không thấy gì cả. Mỵ Châu nói thong thả:
-Có con rùa... Trọng Thủy không trông ra sông nữa. Trọng Thủy quay mặt vào tường thành, buông một câu:
-Chẳng thấy gì đâu! Hai người đă lại đứng dậy leo lęn đến chỗ bậc đá. Bậc bậc cŕng cheo leo khúc khuỷu. Một bên mặt sông ánh lên trong bóng nắng. Một bên khoảng không. Mỵ Châu vẫn nhớn nhác ngoái đầu lại. Mỵ Châu hỏi:
-Mình không trông thấy gì ngoài sông Cái à?
-Không.
-Con rùa vẫn nhìn chúng mình. Trọng Thủy gắt:
-Không!
Giữa dòng nước, con rùa đặt cả hai chân trước lên mảnh lá trang. Mỵ Châu đứng im, nhìn ngẩn ngơ. Trọng Thủy kéo tay áo Mỵ Châu. Hai người lại cắm cúi bước lên bậc. Đã tới cổng thành. Cỏ tranh, cỏ gà rậm rì leo kín ngang lưng cánh cổng. Mỵ Châu đến đứng trước tảng đá to. Trong chân cỏ nhô lęn một chiếc cọc đá. Mỵ Châu cúi, lạy mấy lạy, rồi lay cọc. Cạnh cọc đá nhích ra, trông thấy một cửa hang có bậc xuống. Mỵ Châu bước vào. Trọng Thủy nắm tay Mỵ Châu, nhảy theo. Hai người đến trước bậc thềm. Trên cao vượt ngang đầu, nỏ thần sừng sững án ngữ. Cỗ nỏ thần bệ vệ giữa bệ đá, hůng vĩ lẫm liệt như một lực sĩ đương nhěn bao quát ra ngoài vạn dặm phương trời. Dòng sông cuồn cuộn qua dưới chân lực sĩ nỏ thần hiên ngang. Hai con vẹt xanh biếc bay vào đậu đầu cánh nỏ. Trọng Thủy giật měnh sửng sốt. Thấy người, vẹt quay đầu lại, lơ láo nhěn, rồi cất cánh bay lên. Trọng Thủy cúi xuống kêu khe khẽ:
-Trời ơi! Nỏ thần, nỏ thần... Mỵ Châu đặt chiếc nải tręn vai xuống thềm đá. Hai tay bốc ra từng ôm trầm hương. Khói xanh nghi ngút tỏa lęn. Mỵ Châu ngồi xếp bằng cúi rạp đầu, thŕnh kính lặng yên trước thềm đá. Trọng Thủy trèo lên, áp mặt vào thân nỏ, tay vỗ vỗ, vui sướng đến mê đi, miệng vẫn lẩm nhẩm: Nỏ thần! Nỏ thần!
* * *
Vào quãng nửa đêm. Trăng thượng tuần ánh xuống sông. Con nước đương cữ lęn xoáy tròn một vùng lấp lánh xôn xao. Trọng Thủy bước thoăn thoắt. Bóng ngả dài, nhấp nhô trên mặt thành. Đã tới quãng bờ tường nhô ra. Nhìn xa, người đi như đương chęnh vênh, lơ lửng ra ngoài trời. Những tảng mây lớn ngổn ngang trên mênh mông thăm thẳm. Mặt sông, tường thành, những cánh rừng bãi đêm khuya loang lổ ánh trăng, chỗ sáng rợn, chỗ tối mịt mùng. Trọng Thủy rón rén bước lại phía cỗ nỏ vẫn sừng sững vươn cao trên đầu người. Đến lúc trčo lên thềm đá bệ chân nỏ nhìn xuống, thoáng nghe dưới sông tiếng sóng ì oàm vỗ vào làn nước chợt đẫm ánh trăng, thấy lạnh rợn lưng. Bỗng một người từ trong bệ đá nhảy ra. Bóng người giơ mũi giáo sáng loáng. Trọng Thủy thất kinh quỳ vội xuống, gục đầu kęu khe khẽ:
-Thần nỏ! Thần nỏ! Xin tha cho tội chết, xin... Bóng đen quát:
-Quân bội nghĩa! Trọng Thủy vùng lên:
-A, cái Tàm! Rồi chồm tới. Chiếc giáo ở tay Tàm phóng tới đâm chệch vào bóng tối. Trọng Thủy hất Tàm ngã băng ra ngoài khoảng không. Tiếng sóng và ánh trăng vẫn dào dạt dưới kia.
XI
Buổi trưa vàng nắng, lá trầu không chín vàng trên giàn, ấm áp lồng vào nhau. Những cánh bãi lúa đương gặt bên bờ sông. Tường thành cao lừng lững đến cuối chân tre đầu bến. Trong khoang, chiếc thuyền nan chất đống những lượm lúa nếp đă được bó thŕnh từng cụm xếp chồng lên nhau. Giữa khoảng lúa chín vàng rực, từng bọn người thong thả gặt. Những bàn tay cầm trong kẽ ngón mảnh liềm đồng xinh xẻo. Bông lúa được vít lại, lưỡi liềm khe tay nhô ra cắt nhanh. Bông lúa ngả lên ống tay áo. Làng làng từ khắp các cõi về đến Kẻ Chủ đương vŕo mùa gặt. Những đống lúa đă cao thành cây vàng bạc giữa bãi. Mỵ Châu cùng các nàng hầu bơi thúng qua sông sang bãi gặt từ sáng sớm. Các thuyền thúng của công chúa và nàng hầu chen giữa những chiếc thúng chiếc nan các phường chở lúa tấp nập ra vào bến. Tiếng hát đối đáp rập rờn trong gió. Không phải ngŕy tết mà đầu bãi lúa nào cũng dựng lên một cây tre vòng còn. Những quả còn đuôi hoa dải điều, dải lụa vi vút bay. Bęn kia có những cây đu chŕ, đu xe, đu tięn, chỗ nào cũng từng đám trai gái vừa buông tay gặt, tay dựng lều ở lại, đă ra đánh đu. Những ngŕy gặt hái no ấm cũng vui như ngày hội. Đến mùa được gặt, ngoài bãi còn nhộn nhịp hơn trong làng.
Mọi nhà ra bãi, làm lều ở ngay cạnh đống lúa. Khói thổi cơm gạo mới bốc thơm mů mịt, lẫn vào làn sương trắng mờ trải là là mặt cỏ. Tiếng chó sủa trăng nhũng nhẵng lắc rắc đến tận gŕ gáy. Bởi những đám hát suốt đęm. Sớm vừa ráo sương, người đă lúi húi giữa búi lúa. Trẻ con kéo lũ đi be bờ bắt cá trong những ao chuôm nước cạn. ở lều, các cụ ngồi chẻ tre đan bồ đựng thóc. Lại róc ra từng mớ lạt dang, sắp sẵn thạp bánh chưng. Gặt xong, dọn dẹp trở về lŕng thì năm mới cũng vừa đến. Từ xa, đám bụi cuồn cuộn sau lưng con ngựa nhấp nhô. Một người phi ngựa từ hào thành qua cầu tre sang bãi. Trọng Thủy xuống ngựa. Con ngựa đương sức xoãi chân, bị kèm phắt lại, bỗng cong đuôi, hất đầu, hí một tiếng rồi sục mőm nhá rào rào đám lúa dưới móng. Mỵ Châu, ngẩng lên, hỏi:
-Mình ở nhà ra? Trọng Thủy đáp:
-Không, đi hầu vua cha rồi sang ngay đây.
-Thế thì ta ở lại rồi cùng về. Bếp đã nhóm lửa. †n xong cũng xế trưa rồi. Trọng Thủy thở dài:
-Không biết thế nào bây giờ! Mỵ Châu ngơ ngác:
-Trông mình sao dáng mệt mỏi, buồn bã quá thế? Trọng Thủy nói:
-Có người bên nhà vừa sang. Mỵ Châu lo lắng:
-Mọi sự được běnh yên thế nào... Trọng Thủy nói:
-Tôi đă cứ máy mắt nóng ruột từ hôm phường Chu Diên hay phường Mi Linh đến hát sái, thế mà quả nhiên. Quân Hán đương tràn xuống phía nam, tình thế Phiên Ngung thật hiểm nghèo. Rồi Trọng Thủy ngồi thừ không nói được nữa.
Chợt ngỡ ngàng nghe câu nói dối vừa thốt, tưởng đương ngồi nghe đứa nŕo nói. Tại thế nào lại nói thế. Ai nói... Trọng Thủy bồi hồi... Nhưng Trọng Thủy cũng không nói được câu nào khác nữa. Trọng Thủy chỉ ngồi yên, nhìn Mỵ Châu đã buông hẳn tay hái xuống, mắt rưng rưng. Trọng Thủy bước vào đám lúa, cầm tay Mỵ Châu. Bàn tay Mỵ Châu thơm ấm ngái mùi thóc nếp mới. Tay Trọng Thủy lạnh ngắt. Mỵ Châu nhấc dải yếm lau nước mắt. Trọng Thủy nói:
-Tôi ở Kẻ Chủ thấm thoắt đă được mấy cái tết. Năm nŕo, đến můa này tôi cũng cùng quân gia theo mình sang bãi gặt lúa. Trời sai khiến vậy, duyên nợ vợ chồng đưa đến hay lŕm sao mà đến. Trời ơi! Trọng Thủy nhắm nghiền mắt lại.
-Biết làm thế nào, làm thế nào. Làm thế nào bây giờ? Mỵ Châu xua tay:
-Mình đừng nói những câu gở miệng thế nữa. Ta phải tính chuyện về Phiên Ngung thăm nhà.
-Bảo tôi làm thế nào?
Mỵ Châu nói:
-Tôi cùng mình phải về. Trọng Thủy bối rối:
-Không, không...
Mỵ Châu nước mắt lã chã. Trọng Thủy hốt nhiên không thấy Mỵ Châu đâu, không phải Mỵ Châu đương ngồi trước mặt. Không, không... Những tiếng vừa gắt, vừa hốt hoảng ấy đă đuổi Mỵ Châu trở lại, Mỵ Châu phải ở đây... Không, không... Cánh băi gặt hái đương rộn rŕng mà như trong lặng im. Chiếc thuyền thúng đầy lúa, một cánh chčo đẩy thuyền sang chân thŕnh. Đằng gň cỏ, trong những hố đŕo vào bờ đất làm bếp, nòm rơm đã được thổi lên, đặt chõ ninh xôi, khói tuôn mù mịt một góc đồng. Các nơi ra gặt lúa thổi nấu cạnh lều. Tiếng sáo vi vu đâu đấy. Tiếng cười rúc rích trong lúa. Những đŕn chim gáy lượn tròn rồi sà xuống. Xa xa, một con chim gi cất tiếng gù gọi mái, rồi im. Trên bóng nước bỗng nổi lên những đốm chuyển vần sáng lấp lánh một vùng tròn xoe. Có lúc đổi sắc như cầu vồng. Có lúc rực rỡ chói lọi như cả trăm chiếc chięng được giơ cůng lúc. Đấy lŕ đŕn chim công đương múa. Có đến hŕng nghìn công múa. Đuôi công xòe tròn nong nia, cái nghiêng, cái đứng, cái ngả dài, tỏa biếc, tỏa tía, tỏa hồng... Cánh đồng mênh mông vàng rượi từng làn lúa chín thơm sực nức. Nhưng lòng người thì đang nung nấu thảm thiết mọi nhẽ. Trọng Thủy nghĩ thế nào? Thế nào thì Trọng Thủy cũng đã làm trọn mọi điều cha đă căn dặn từ ngŕy ra đi. Nhưng mỗi khi, như giờ đây đương tưởng lại mấy năm trong thŕnh ở Kẻ Chủ, bỗng dưng lại hoảng hốt. Trọng Thủy bó gối, gục mặt trong vạt áo. Làm thế nào bây giờ? ờ nhỉ, mình sang gặt bãi này đã mấy mùa lúa rồi. Nhớ cái ngày ta vỡ bãi, lúc ấy ở đây còn lỗ chỗ toàn lúa ma. Cái năm mới cấy lần đầu, nước sông lęn to, cấy xong lúa ngập một đầu một với. Có năm, lŕm lều ngủ đęm trên bãi. Trời rét nhưng mà trăng sáng lắm. Bãi lúa này... ừ mà sao lại không nghỉ lại đây đęm nay, cho bọn quân hầu ở lại nhân thể! Đi hát với các lều của lŕng chạ cánh bãi cả đêm như mọi khi, như mọi năm. Không được, không được... Hay là về ngay bây giờ, về bây giờ... Mỵ Châu hỏi:
-Về ngay bây giờ a? Trọng Thủy lẫn lộn nói sảng, nói tỉnh:
-Về Phiên Ngung.
-Cho em về với.
-Về đâu?
-Về Phiên Ngung mà. Trọng Thủy cười, mắt nổi vằn đỏ, lại đột ngột lęn cơn thảng thốt. Trọng Thủy cuống cuồng xốc Mỵ Châu lên vai, chạy ra chỗ con ngựa đương gặm lúa. Trọng Thủy đặt Mỵ Châu lęn lưng ngựa rồi nhảy lên theo. Con ngựa lồng đi. Mỵ Châu, hai tay bưng mặt, khóc rưng rức. Thế rồi mấy hôm liền, Trọng Thủy lên cơn sốt mê man. Trọng Thủy nằm thiêm thiếp. Trận sốt đến suốt đęm, vẫn chưa lui. Mỵ Châu rón rén bưng bát cháo thuốc đến đầu giường. Trọng Thủy mở đôi mắt lờ đờ. Mỵ Châu ái ngại:
-Xin đừng quá nghĩ mà sinh bệnh. Trọng Thủy hỏi:
-Mình vừa đi hầu vua cha về? Mỵ Châu gật đầu. Trọng Thủy chống tay ngồi dậy, chăm chú:
-Vua cha dạy thế nào? Mỵ Châu nói:
-Cha bảo nên về sớm. Có thế nào thì cho tin sang ngay. Trọng Thủy hốt hoảng:
-Tôi không được về à? Tôi, tôi...
-Mình làm sao? Lại nói sảng rồi. Trọng Thủy lẩm bẩm một mình:
-Chúng ta cùng về a? Mỵ Châu lắc đầu:
-Không, cha bảo em ở lại. Trọng Thủy thong thả thở dài, buồn thẳm mà lại hồ như nhẹ nhàng:
-Một mình tôi về... Mỵ Châu lã chã nước mắt:
-Mình ơi, mình phải về. Trọng Thủy ngồi rũ đầu xuống gối một lúc. Rồi thẫn thờ:
-Tôi về. Lúc này còn ở với nhau, biết mai kia có còn gặp nhau. Nói thế rồi Trọng Thủy lại hốt hoảng lên. Trọng Thủy lại ngỡ như ai vừa nói câu ấy, tiếng vang lại tai mình. Nhưng rồi ta sẽ gặp nhau, ta lại gặp nhau. Mỵ Châu rầu rĩ:
-Chỉ nói dại.
-Ta có còn gặp nhau. Ta lại gặp nhau.
-Không được nói dại.
-Tôi lo lắm.
-Mình hẵng nghỉ ngơi cho thật lại người. Đường đất từ đây về cňn bao khó nhọc đň giang. Trọng Thủy thở dài:
-Không biết bây giờ ra thế nào. Mỵ Châu không nghe ra Trọng Thủy nói gì. Mỵ Châu ngước mắt, nâng tay cầm bát thuốc:
-Mình cạn bát thuốc này. Hai con vẹt xanh biếc bay vào, đầu ngất ngưởng ngoài song cửa, kêu vẹt vẹt. Trọng Thủy nhắm nghiền mắt. Rồi Trọng Thủy uống một hơi hết bát thuốc, kéo vội chiếc chăn ủ trên gối, trùm lên đầu. Giọng Trọng Thủy rền rĩ từ trong chăn ra:
-Đuổi con vẹt đi! Đuổi con vẹt đi! Những tiếng "khách khách" tai ác, tręu chọc hôm trước của những con vẹt bỗng rợn trở lại. Tiếng con chim như tiếng ma, như nhát chổi hất Trọng Thủy ngã xuống. Nhưng hai con chim vẹt đã bay đi. Trọng Thủy bình tĩnh lại, lại nghĩ ngày mai trở về Phiên Ngung, rồi mơ màng đến khi gặp lại, làm thế nào gặp lại. Trọng Thủy nói:
-Mai sau ngộ thế nào thì làm sao tìm được nhau?
-Đă bảo đừng nói gở, nói giọng ma thế. Đừng hỏi nữa. Měnh nằm nghỉ đi. Trọng Thủy lại nói:
-Dẫu chẳng bao giờ mong thế, nhưng lo. Mỵ Châu bật cười:
-Lo làm gì cho dại người. Trọng Thủy chép miệng:
-Có nhẽ cũng là đùa cợt nhỉ. Ta lo như chuyện lo xa của Sơn Tinh trên núi. Có lần Thủy Tinh đánh lên, vợ chồng Sơn Tinh gặp bước khốn cùng, chạy lạc cả nhau. Nhưng nhờ có dặn dò trước nên tìm gặp lại nhau được. Chắc thế. Cứ lo xa thế cũng nên. Mỵ Châu cười:
-Nhưng sau, chàng Thủy Tinh biết Mỵ Nương chẳng bao giờ có lòng về kẻ bể, từ ngày ấy không cất công dâng nước lên nữa. Không lo đâu. Trọng Thủy cũng cười:
-Biết thế nào. Mỵ Châu nhìn Trọng Thủy. Mỵ Châu đặt ngay ngắn lại tấm chăn lęn gối Trọng Thủy. Trọng Thủy nhìn chăn, nói:
-Tấm chăn nŕy vợ chồng ta vẫn đắp. Mỵ Châu lặng im, vuốt những chiếc lông ngỗng trắng xňe quanh mép chăn.
-Rồi tôi trở về tìm mình... Mỵ Châu giơ một góc chăn lô xô lông ngỗng, nói như đůa như thực.
-ừ, có cơn cứ làm sao, cứ tìm chăn thì thấy người. Trọng Thủy cười:
-Biết chăn ở đâu mŕ tìm?
-Đi đâu em cũng mang theo.
-Làm thế nào tìm thấy đi đâu?
-Lông ngỗng này rắc xuống lối đi. Bao nhiêu chiếc lông ngỗng chỉ đường, tìm người ngoài nghìn dặm còn thấy. Trọng Thủy kêu lên:
-Trời ơi, tấm chăn nŕy... Mỵ Châu rầm rì như khấn khứa:
-Tấm chăn nŕy... Mong khi gặp lại nhau, chăn không rơi một sợi lông ngỗng, chăn vẫn nguyên vẹn như lòng người thương nhớ. Mình nói thế đi. Trọng Thủy cúi mặt, đứng lęn. Mỵ Châu thở dài:
-Mình nói đi. Trọng Thủy đứng trơ ra, không thốt nổi một câu. Trọng Thủy lảo đảo, muốn ngă.
XII
Ba bố con Đô Nồi can vua Thục đừng cho Triệu Đŕ cầu hôn cho con không được, liền về Chięm Trạch làm ruộng. Các ông Đinh Toán, Đinh Công Tuấn, anh em ông Phạm Chung, Phạm Túc, Phạm Hňa cũng bỏ đi cả. Họ Đinh ngược lęn ngọn nước. Họ Phạm về Mi Linh. Đến khi Triệu Đŕ phát quân xâm lược, ba bố con Đô Nồi cůng người Chiêm Trạch lại lên thành Loa chống giặc. Đô Nồi cùng hai con là Đống và Vực đều chết trận. Gò đất to cạnh sông Đuống đầu lŕng Chiêm Trạch, đời sau gọi là gò Thánh Hóa. ... Cao Tứ, em Cao Lỗ, nghe tin quân Triệu tới, vội trở lại thành Loa, xông pha trận tiền, cản đường giặc cho vua Thục chạy. Cuối cùng, thế yếu, Cao Tứ gieo mình xuống sông Tô Lịch
(Truyền thuyết Hùng Vương-Hội Văn nghệ tỉnh Vĩnh Phú, 1981)
* * *
Những đŕn ngựa, những cánh quân Triệu kéo đi bạt ngŕn. Những ngọn giáo dựng sáng loáng trên đầu. Những cánh cung lủng liểng bên vai. Bao nhiêu bụi tre, bao nhiêu làng xóm bốc cháy. Người cõng con, người dắt trâu chạy. Một mũi tên bắn đuổi theo con trâu bồn. Đám quân Triệu xô tới, xỉa giáo xiên ngã con trâu. Hoa gạo đỏ gắt rụng lỗ chỗ, hoa tan tác đỏ, lẫn những vết máu suốt dọc đường. Quân trảy rối loạn cả với những đám người chạy trong lửa chạy trong lửa cháy lŕng ra.
-Đây đă đến đâu?
-Vào qua Vũ Ninh rồi.
-Gần Kẻ Chủ lắm, phải không?
-Đi tắt chỉ cňn trong ngoài trống canh. Tiếng quân reo vang. Quân Triệu miên man đi trong ánh lửa cháy các làng xóm. Cả đến những mảnh bè vó trên sông cũng bốc cháy cuồn cuộn. ở đầu làng kia, người chạy loạn đến đứng tụ ngoŕi bờ giếng. Chưa biết chạy đâu.
-Nghe nói nó còn tận xa.
-Đến nơi rồi đây nŕy.
-Đau lňng chưa! Chỉ bởi chưng cả tin quá.
-Sao bảo con vua Triệu vào làm rể vua chủ thì thiên hạ thái bình!
-Vừa mới năm trước đi xem bao nhięu lừa ngựa dẫn đồ cống của vua Triệu hŕng năm tiến vua chủ. Năm trước đây thôi.
-Thế mới thâm.
-Chỉ có ông Cao Lỗ nói chẳng sai. úy Đŕ nuốt xong Quế Lâm, Tượng Quận rồi nó nuốt đến ta. Thế mŕ quả nhiên.
-Giặc sang nhanh vậy, quân các cõi có kịp biết mà về sớm không?
-ối trời ơi!
-Quạ vỡ tổ bay ngang sông nhiều quá. Đồng rừng to thế kia, cơ chừng giặc đến sau lưng mất rồi. Vua Thục dừng ngựa trong đám quân tuần thŕnh nhìn xuống. Từ ngoài các bến nước trước cổng thành, chen nhau người chạy vào. Từng đàn trâu bồn giữa đám người bối rối. Lại hàng đàn trâu đương bơi loạn giữa dňng. Đă mấy hôm xao xác như thế, từ khi có tin quân Triệu tràn tới. Thật lạ, thật ngỡ ngàng, mới nghe có tin báo. Vua Thục điềm nhiên hỏi lại:
-Giặc nào? ạng lạc tướng vừa chạy tin về, run rẩy thưa:
-úy Đŕ đă phát quân phạm vào cõi ta. Vua Thục trố mắt nhìn ông lạc tướng:
-Quan quân nó áp tải đồ cống năm nay vừa mới về mŕ. ạng lạc tướng càng run bắn người. Ngỡ như vua Thục nghe lạc tai. Không tin, vua chủ sắp hô lệnh đem chém ông. Nhưng vua Thục đă đứng phắt dậy, hai tay vụt ôm lęn, như giằng hàm râu ra. Vua Thục thét to:
-Quân chó ngao phản trắc! Quân phản trắc! Nó quên mấy phen trốn chết năm xưa rồi.
Suốt đęm ấy, vua Thục trằn trọc. Những nông nỗi ngoài mười năm qua cứ hiển hiện, đuổi mất giấc ngủ vua chủ. ánh trăng vằng vặc trong khuya. Mùi hoa mộc, hoa cau ngoài hiên đưa vào, thơm nhẹ. Mà sao không như mọi khi, chỉ thấy gây gây. Đêm nay mùi hoa cau khó chịu như hoa ngái. Thân phận úy Đà chưa đáng đi bằng đầu gối đến lạy trước mặt ta, ta đă đối xử độ lượng, có lňng đến nhường ấy mŕ vẫn chưa mở mắt được cho nó. Thế lŕ làm sao? Nghĩ vậy, bất giác vua Thục nhớ lời ruột gan của anh em Cao Lỗ, của bố con Nồi hầu, những người thân tín ngày trước. Vua Thục nhìn chăm chắm vào khoảng không. Quả là những người ấy, con mắt có tầm, cái biết cao hơn ta. Nhưng mà được, được. Ta đă tha chết cho mày. Ta đã lấy cái gương yên vui của thiên hạ làm điều răn dạy mŕy, lại xem mày như tình trong nhà, thế mà mày cam tâm đến cạn tàu ráo máng thế. Được, mày lại phải phen nữa máu chảy đến trôi cả khiên, mày lại được thế. Vua Thục nghẹn ngŕo uất lên, ngồi xuống. Phải gọi các tướng của ta về ngay. Bên cạnh ta với nỏ thần lúc này phải đông đủ những người đă từng cùng ta nằm gai nếm mật. Ta sẽ đãi mỗi ông một sừng rượu. Ta nói: các ông đã trông thấy trước có ngày úy Đŕ lại đến chịu chết bęn sông kia. Các ông đă nhìn xa hơn cả vạn dặm ngoài cửa bể. Xin các ông hãy cùng tôi cạn sừng này rồi ta lên lệnh chiêng. Ngay giữa khuya, vua Thục gọi quân thủ túc vào.
-Mời các ông họ Đinh về. Ngựa tức khắc lęn ngược. Thuyền lệnh xuôi sông Thiếp sang sông Lú ra cửa sông Cái, chèo như tên bắn đi tìm anh em các tướng họ Phạm.
-Ai biết tướng quân Cao Lỗ đâu? Mọi người lắc đầu.
-Về Chiêm Trạch báo tin bố con Nồi hầu. Nhân thể hỏi anh em Cao Lỗ, ông Đô Nồi có thể biết. Quân quan chia nhau đi ngay trong đęm.
Tiếng ngựa đă vẳng xa, vua Thục mới chợp mắt. Những việc vừa thu xếp xong đă đưa được giấc ngủ chập chờn lại. Nhưng chỉ chốc lát, mő canh lẫn trống trên thành đã nổi gấp gấp. Tiếng trống đồng rộn rã, tiếng trống sắp vào trận lại dựng vua Thục ngồi dậy. Ngay hôm ấy, vua chủ lên mặt thành sửa soạn, xem xét. Chưa bao giờ vua Thục cảm thấy nghiêm trọng với những đăm chięu, những quả quyết như lần này. Vua Thục vẫn đinh ninh một niềm tin mãnh liệt. Nhưng hễ chợt nghĩ đến lòng người "lá mặt lá trái khôn lường" nhường ấy, phút chốc vua Thục lại bàng hoàng, lại sững sờ. Càng căm giận đến rởn tóc gáy, vua Thục cŕng mải mê đôn đốc mọi mặt, từ các phường ra ven hŕo, ven sông. Vua Thục lên thành. Đoàn người ngựa đã từ thành nội tấp nập lên trấn cửa thành các phía. Một ông quan võ cưỡi ngựa thổi tù và mở đường, Từng hàng các cô nàng múa tay gõ cồng dẹp đám. Các ngả đường trong đám thŕnh đă vắng tanh. Cây gạo rụng hoa trên bãi cỏ, mỗi chỗ đỏ sẫm như vũng máu khô. Các phường như các lều chợ, nhà nào cũng đóng cửa im ỉm. Mới mấy hôm trước cňn những người ra đứng quanh khuôn giếng lấy nước xúm xít bŕn tán với người quảy gông cỏ cho tàu ngựa, người chạy vỡ chợ về. Bây giờ đã mất bóng đâu. Chỉ độc thấy những đoŕn quân ròng rã kéo lên thành. Những chiếc xe quệt trâu tải tên nỏ, những thớt voi lầm lì khênh thạp xôi, tảng thịt trâu... Sau một dãy ngựa, đàn đi trước đŕn đi sau vua chủ, có hai thớt voi, tręn lưng xếp bề bộn mọi thứ" trầm hương, cảnh rượu, những gióng buộc một dây lợn sống. Lại cả chăn, chiếu, đệm. Vua chủ đi đốc chiến ngŕy đęm ở luôn trên thành. Trên thềm bàn cờ quân đá cuội gọt đă được bŕy sẵn từ bao giờ. Có lẽ bàn cờ quân cờ ấy vẫn nguyên thế ở chỗ ấy, từ ngoài mười năm trước, những hôm vua Thục và Cao Lỗ ung dung đánh cờ nghĩ mưu đợi đánh giặc Triệu. Một ông quan hầu bước lại bàn cờ -có lẽ ông lạc tướng đương mơ lại những ngày đánh giặc dữ dội mà thong dong năm xưa. ạng lạc tướng đánh bạo nói với vua Thục:
-Vua chủ cho mời đức ông Cao Lỗ về hầu cờ. Vua Thục mỉm cười, ái ngại, ôm râu vuốt, gật đầu, toan nói:
"Chưa có người hậu cờ là tại ta đây". Nhưng vua Thục chỉ nói:
-Đă đi hỏi tin rồi. Vua Thục ra lệnh:
-Nổi chiêng hiệu lên xem các cõi về đủ chưa. Chiêng rền từng tiếng. Các mặt thành, gióng giả liên hồi chiêng. Quan lạc tướng lắng nghe rồi nói:
-Tiếng đáp lệnh chỗ dồn dập, chỗ cňn thưa.
-Chốc lại nổi chiêng nữa soát lại.
Ba hôm sau. Giữa trưa, một quan lạc tướng bỏ ngựa dưới tường thành hấp tập chạy lên.
-Quân Triệu vít chặt bên kia sông rồi. Đông hơn ngày trước nhiều lắm. Vua Thục nói:
-Chưa thấy quân ta báo về.
-Giặc Triệu chẳng theo đường cái xuống. Mŕ bỗng chốc òa ra khắp các ngả, chặn hết lỗi các cõi.
-Tất phải có chim mồi dắt đất, giặc mới thuộc đường sá đến thế. Vua Thục chợt cảm thấy đau nhói như gai đâm vŕo óc. Một điều cay đắng vụt tới. Vua Thục đă nghĩ ra. ừ, phải có đứa trong tay dắt đất... Nhưng vua Thục lại trấn tĩnh ngay.
-Nỏ các phía lên chưa?
-Nỏ lên hết rồi, đông ngập mặt thành rồi. Hai ông quan nhớn nhác, thì thào:
-Quái, nó ở đâu đến nhanh như chui dưới đất lęn.
-Đă bảo có đứa dắt đất mŕ. Ong chui trong tay áo bao năm nay.
-Tôi lo lắm. Vua Thục quát:
-Im ngay! Hai ông quan xanh mắt, lủi xuống. Vua Thục gạt ngang cánh tay, ngước lên bệ nỏ thần rồi nói với tất cả hàng quan đã sẵn sàng quanh đấy:
-Các ông đứng cạnh núi cao cất giấu khí thiêng trời đất mà không có mắt a? Rồi vua Thục sụp lạy dưới bệ đá. Các quan quì xuống sau lưng vua chủ, trang nghiêm, uy nghi. Từng đám quân đội thúng đến đổ trầm, quế xuống đống thơm đương khói nghi ngút tỏa qua mặt đám quân quan kính cẩn quě quanh bệ đá. Lớp nŕy lui ra, lớp khác vào. Suốt mặt thành, mấy trăm lực sĩ đợi lượt lęn kéo cánh nỏ đă tề tựu ăn ngủ ngay tại chỗ từ mấy hôm rồi. Người nŕo cũng vừa cởi phăng áo, chỉ đóng chiếc khố điều. Những cánh tay, những bắp vế để không mŕ cũng quằn quại như con trăn quăng měnh. Trên ụ canh, các quan lên xuống, tin đưa liên tiếp, vang nổi lên tứ phía. Thuyền mảng trổ sang tua tủa như gỗ trôi. Thình lình, từng bọn quân Triệu lội ra kín mặt hào nước. Vua Thục vịn tay lên bậc bệ đá trên.
-Đốt trầm lęn.
Tiếng cồng âm u trong khói trầm. Mọi người trên mặt thành lại phủ phục xuống. Một ông quan võ khiêng cảnh rượu, trèo lên đặt xuống trước thềm đá bệ nỏ thần rồi lại nhấc cảnh, khoan thai bước lęn từng bậc. Hai tay nâng cao, ông nghiêng miệng cảnh. Rượu đổ ồng ộc, bắn tung tóe xuống lòng máng nỏ. ạng quan lạc tướng ngồi trên ụ canh trước mặt đứng dậy, bước lên một bậc thềm, xắn hai ống tay áo, đánh một hồi chiêng. Đôi hàng lực sĩ đã cúi khom khom như bò lên bậc đá. Rồi thoắt chia hai cánh, đứng núp dưới bóng bęn cánh nỏ chĩa ra dài như hai cột đình cầu vút ngả xuống. Mỗi lực sĩ quì một bên gối. Ngót trăm tay từ từ giơ lên. Hai cánh nỏ uốn cong đưa lằn thừng dây nỏ vào mỏ lẫy. Cánh nỏ xuống từ từ, mồ hôi nổi cục trên lưng, trên vai. Những con mắt đỏ dọc trừng trừng đến nỗi như sắp lňi ra. Lằn thừng da trâu vừa lọt vào khe lẫy, cả hai hàng người buông tay, ngã vật. Mà cánh tay vẫn cứ thẳng đơ, gân cứng như đũa, không co lại được. Toán lực sĩ khác chạy vŕo, rẽ hai bên chực sẵn. Những ống bương cháy nổ lệnh ran các thành. Vua Thục giơ ngược tay, phất ống tay áo. Tiếng cồng càng liên hồi, mãnh liệt. Vua Thục từ từ đặt tay vào giữa lẫy nỏ. Hai đầu cánh nỏ bạt vút. Tiếng thừng da trâu căng ra réo như nước xói. Nhěn xuống lòng máng, những ống tên đồng vàng rực vẫn nằm yên dưới làn gió thừng nỏ bật qua. Vua Thục rùng mình lạnh suốt sống lưng. Nhìn lại lần nữa bộ nỏ thần nằm trên bệ. Hai cánh xoãi dài như con đại bàng đương bay qua bể.
Không có gì khác. Không thể như thế, không thể như thế. Năm năm, phường nỏ tręn ngược vẫn về xem lại cánh nỏ, soi lại lòng máng. Phường đúc Hàm Hoan vẫn trảy ra gõ rìu soát từng ống tên đứng trong kho. Chỉ có một mình vua Thục ở cùng phường nỏ, phường đúc xem xét từng ly từng tí cho đến khi xong. Những việc tuyệt mật, trong thŕnh ngoài nội không ai biết. Cửa thành cấm bao năm vẫn đóng im ỉm. Không ai tỏ tường mọi công việc vua chủ lo chăm chút cỗ nỏ thần. Cả mấy bờ tre, luồng mới kén ngâm được nửa cật. Hŕng chục mảng ghép đem quấn da trâu tách kẽ mŕ khít chặt. Hàng trăm trai tráng khoẻ mạnh đă phải mang tật suốt đời vě cật sức thử cánh nỏ. Thân, máng, lẫy, như thế. Tuyệt nhiên, không suy suyển. Tháng tháng, đầu tuần trăng, một měnh ta vẫn tự đeo tay nải hương trầm lęn đây. Chỉ có mỗi měnh ta. Không, vẫn nguyên từ ngày đặt nỏ thần lên bệ, như thế này. Tiếng chiêng lại thúc. Một đợt chiêng vang, quân reo nổi cồn các phía. Hai hàng lực sĩ vươn tay lên kéo. Cánh nỏ bật ra réo đinh tai giữa đám người vừa buông ra, kiệt sức, lả tả ngă xuống. Loạt tên đồng vẫn nằm trơ trong lòng máng! Vua Triệu, mồ hôi đầm đěa mặt, hàm râu ướt đẫm. Một quan lạc chạy lên:
-Ba ông họ Phạm đă về tới. Vua Thục ngước nhìn ra. Anh em Phạm Chung, Phạm Túc, Phạm Hòa đã lừng lững đứng trước mặt. Khí thế uy nghi hệt như ngày trước. Các ông mặc áo nái điều, ngực quấn giáp da trâu thuộc, tay cầm thanh đinh ba nhọn hoắt. Ba người cúi xuống:
-Chúng tôi đợi lệnh vua chủ. Vua Thục kęu:
-Trời giúp ta rồi! Trời giúp ta rồi! Tướng Phạm Hòa nói:
-Xin cho quân chúng tôi lên thành. Vua Thục nói:
-Lên ngay, lên ngay. Cho người vào thay tay kéo nỏ đây. Ba ông Phạm cůng bước ra. Mỗi người nâng tù và buộc nơi thắt lưng, ngửa mặt thổi từng hơi dài. Tiếng tù và uôm lên, vang vào vòm không. Đấy là tiếng hiệu cho các toán quan vừa từ Mi Linh, Chi Diên kéo tới. Trên các đường thành vòng cung, cửa cuốn, nhấp nhô, cuồn cuộn bóng người, mũi đinh ba, mũi giáo, đầu cánh nỏ, ống nỏ. Các khe bắn nỏ đầu tường thŕnh được lắp san sát, không cňn một lỗ trống hốc. Một toán quân lên thành giữa. Các tướng em Phạm Túc, Phạm Hòa hăm hở xuống bậc đá, theo quân nhảy thoăn thoắt sang các mặt thành. Tướng cả Phạm Chung bước lại trước mặt vua chủ, giữa đám quan hầu vừa khiêng lại mấy cảnh rượu. Phạm Chung xắn tay áo, xách tai cảnh trèo lên chót vót bệ đá cao nhất, đổ rượu vŕo giữa máng nỏ thần trên đỉnh, làm lễ rửa nỏ lần nữa. Lòng nỏ đồ sộ uốn cong như vòm cống. Cảnh rượu đổ xuống, cả dãy tên đồng nằm chăm chắm, như một hŕng cột ngả ngang, bỗng sáng lên, soi gương được. Xung quanh im phắc. Tất cả ngước nhìn tướng Phạm Chung khởi lễ rửa nỏ. Khói trầm bốc từng đám xanh thẫm. Hai hàng lực sĩ rạp xuống lạy lên cỗ nỏ, rồi vươn tay. Những thớ thịt cánh tay, các đường gân trên má, trên trán, quanh cổ nổi lên. Dây nỏ từ từ trĩu xuống, vừa khớp được vào mép lẫy thì người buông tay lăn ra. Tiếng chiêng rền rền. Vua Thục vẫn đứng trên thềm đá, như lúc năy. Vua Thục từ từ đặt tay vŕo máng lẫy. Gân tay vua chủ nổi cuồn cuộn, mồ hôi hột hai bên thái dương rỏ giọt xuống, lã chã trên mặt đá. Cả khuôn mặt và cánh ta vua Thục đỏ thậm, rồi trắng bạch... Cánh nỏ bật. Một luồn gió giật qua. Mọi người ngồi sụp xuống, rồi lại rùng rùng nhìn ngay lên. Cả dãy tên đồng vẫn nằm trơ trong lòng máng! Vua Thục gầm lên:
-Bắn nữa! Bắn! Chiêng lên! Chiêng lên! Những lực sĩ kiệt sức lúc nãy còn lăn lóc quanh bệ đá. Hŕng lực sĩ khác đă xô lên, tiến vào. Lại toán nữa liền theo, trèo qua những người nằm ngổn ngang. Tất cả đứng sẵn dưới cánh nỏ. Tiếng vua Thục ra từng lệnh vẫn rền như sấm:
-Đốt trầm! Đốt trầm! Khięng cảnh rượu nữa! Chiêng lên! Chiêng!
Nỏ quân quan quanh thành bắn ra như mưa cũng không cản được đám quân Triệu nhốn nháo xô lên. Các chiến sĩ xông ra chặn, ngã trước mũi tên ngay chỗ ấy. Những người khác xỉa đinh ba tới tấp. Quân Triệu núp dưới vai đeo mộc lăn vŕo. Những phát nỏ bắn ra, cắm trên mộc quân Triệu lủa tủa như lông nhím mọc. Cả người cầm mộc, người giữ thành, chết đổ xô lấp đường lęn thành. Những toán quân Triệu ấy ngã, lại toán khác nhảy vào. Đột nhiên, một cánh quân áo chàm khăn chàm cùng tướng Đinh toán đổ xô tới. Những chiến sĩ ấy từ vůng rừng núi đầu nguồn đă ròng rã ngày đêm về tới. Trông lên, quân Triệu đã vây thành chằng chịt vòng trong vòng ngoài đen kịt như vãi đỗ. Trong đęm tối, đóm đuốc sao sa như con trăn lấp lánh vảy sáng núc trňn quanh thành. Không còn lấp ló một ụ canh nào nữa. Đinh Toán hỏi Đinh Công Tuấn:
-Làm thế nào bây giờ? Tuấn nói:
-Ta chỉ như hạt cát. Nhưng gió cuốn hạt cát lên sẽ thành núi cát. Quân reo à à. Hai tướng họ Đinh dốc quân đánh thẳng vŕo quân Triệu. Đoŕn quân như bơi giữa vòng sông máu, quân Triệu ngã ra. Tảng sáng, phá vây được tới đây, trông lại chỉ cňn vài chục ngọn giáo và những cánh nỏ xơ xác. Đinh Công Tuấn đă nghỉm xuống chết chìm ở quãng xô xát nào. Vua Thục ứa nước mắt, gọi to:
-Đinh Toán! Đinh Toán! Quân Triệu đă đội lęn được bao nhięu quãng thành. Trận đánh giáo mác đâm ngập mắt, suốt lưng. Người chết chồng đống ngay cạnh các bờ tường. Những người bị văng ra ngoŕi sông. Có người cầm giáo xỉa trước mặt rồi ngã xuống đấy. Có người một tay giơ khiên che mình, một tay quơ cảnh rượu, đập như nện búa. Không lắp tên vào máng nỏ được nữa, cứ giơ thân nỏ mà quật. Có người quăng cả chiếc chięng đồng vŕo quân Triệu.
* * *
Vua Thục lảo đảo đứng dậy. Trong bóng tối, tęn nỏ, gươm giáo xoang xoảng mù mịt trước mặt. Bỗng nghe một tiếng gọi to:
-Vua chủ! Vua chủ! Vua Thục bừng mắt.
Quang cảnh bỗng lặng tờ. ở đâu, ta ở đâu, chứ không phải đương trong cuộc xô xát máu đỏ cuồn cuộn khắp các bậc thŕnh. Sông Cái đỏ lừ męnh mang phẳng lặng. Những đóa hoa súng, đŕi tím, nở cánh trắng. Những chiếc lá trang xanh tròn xoe lát trên mặt nước. Con rùa khoan thai bơi quanh các khóm lá. Cao cao trên kia, chiếc chim bói cá đứng, ngắm xuống một xoáy nước. Vua Thục thảnh thơi ngồi trên thuyền. Như năm nào đoàn thuyền ngự của vua chủ ra sông Thiếp, sông Lú. Đi rót nước đồng ở lň Chiêm Trạch. Đi theo phường săn... Vua Thục lại trông thấy hŕng dài những đoàn người kéo đất, đội đất, bóng người cắt bóng lęn mặt thành.
-Vua chủ cứ quá khen làm cho tôi nghĩ mà thẹn thay. Nhờ được người tám cõi cùng một bụng. Không phân biệt ngôi thứ giường chiếu, các quan lạc cũng như người dắt ngựa. Thế thì việc khó đến thế nŕo chả xong.
-Có thành vững rồi, từ nay được ngủ yên.
-Tôi nghĩ chưa hết lo đâu.
-ạng bảo còn phải làm gì?
-Tôi nghe những người qua lại đất Triệu về nói bọn úy Đŕ nuốt được Quế Lâm, Tượng Quận rồi. Bờ cői ta vuông vắn nghìn dặm, thế nào chúng cũng đỏ mắt nhňm ngó. Ngồi giữa thuyền, vua Thục thét to:
-ạng là ai? ạng có phải tướng quân Cao Lỗ không? Người chèo thuyền không nói. Vua Thục bối rối:
-Có phải ông về cứu tôi sang sông? Vua Thục kêu to:
-Cao Lỗ! Cao Lỗ! Xung quanh mù mịt. Trời xám lẫn nước. Vua Thục nhắm nghiền mắt. Nghe mũi thuyền chạm vào mớm cát. Người chèo thuyền dắt tay vua Thục, bước lên bờ.
XIII
Nhất chiêu giang bắc động chinh bề Nam chử đồ cůng thất mã tê Thiết bảo thử tâm phi ngộ phụ Truy mao hà diện cánh câu thê Song châu dị hóa làm lưu bạng Bách kiếm nam thù nhập hải tê Loa cáp thê lương hà xứ mịch Tà dương tước vũ Mộ sơn tê (Quá Mỵ Nương miếu, Cao Bá Quát 1809 -1853) Một sớm bên bắc sông nổi trống trận Bãi bể nam nơi đường cùng ngựa thét lên Khi lấy trộm móng rùa lòng thực không có ý hại cha Đuổi theo vết lông ngỗng cňn mặt nào đi tìm vợ Máu và nước dễ hóa làm đôi hạt châu trong bụng con trai Sừng vân tê đã xuống biển dù trăm nhát kiếm khó đền bů Đến nay sň ốc thê lương biết tìm nơi nào Chiều tà chỉ thấy công múa phía tây núi Mộ Dạ.
(Qua miếu Mỵ Nương. Bùi Hạnh Cẩn dịch nghĩa)
* * *
Tiếng ốc sôi sùng sục. Người ngựa quân Triệu vẫn chen nhau vượt lên, đầu giáo dựng ngược. Bỗng tiếng reo vang vang. Những tiếng chân rầm rập chuyển đất, lung lay lęn cả ngàn tre. Ngựa quân Triệu dựng đứng chân. Một cỗ hơn mười thớt voi đương xông tới. Voi đầu, tướng Vực giơ búa, thúc thẳng vŕo. Voi sau, tướng Đống chém xả xuống hai bęn mở đường máu. Quân Triệu giạt ra như sóng đánh. Nồi hầu phóng voi đến trước ngựa vua Thục.
-Bố con tôi chịu tội với vua chủ, không sớm đến được. Bây giờ xin cho đánh giặc trước đă. Nói xong, Nồi hầu quay phắt lại, thúc voi vào đám quân Triệu vừa tới. Tướng Đống, tướng Vực cůng các quân quan người Chiêm Trạch đã đương tung hoành vào giữa đám. Vua Thục cắp kiếm trong nách áo, hai tay vái về phía ông Đô Nồi. Trận quần thảo với quân Triệu quây lại ngay tręn bãi ngô bờ sông Lú. Đám ngựa quân Triệu đă đuổi sát đến sau lưng vua Thục, bị cánh quân Nồi hầu đến kịp hất lại. Những con voi chiến chồm đứng hai chân trước, xéo vào giữa đám người ngựa đương lổng chổng giạt ra. Những chân voi cứ buông như chŕy giã gạo. Những vòi voi quơ ra, túm ra xa được cả những đứa mau chân chạy nhất. Vňi voi tung lên trời từng bọn, như những bó lúa. Những nhát búa quai sang hai bên sườn voi, gặt gẫy hàng loạt giáo. Quân Triệu bắn vào những chiếc khiên mây, cắm phầm phập, rung đuôi. ạng Đô Nồi giục voi thẳng vŕo giữa đám. Búa ông xả ngă tất cả những đứa cả gan ra cản.
ạng lại đập vồ giục voi tiến xuống. ạng Đô Nồi chủ tâm đi těm bắt Triệu Đŕ. ạng đă bàn như thế với hai con từ lúc cất quân. Hai tao trước, quân Triệu tan hết rồi lại vẫn còn ngóc đầu được, chỉ bởi Triệu Đŕ thoát chết nên mới gây hậu họa. Sáu quân hô một tiếng, hùng hổ trảy về Kẻ Chủ. Nhưng đến nơi thì thành đã vỡ. Trông vào chỉ thấy ngọn lửa cao ngang trời. Trên các dòng sông quanh thành, xác người, xe trâu xe la kéo, cung nỏ khiên giáo trôi bề bộn. Tưởng như có thể bước truyền qua sông được. Quân ông Đô Nồi lại lặn lội mň ra đường. Nhưng chỉ gặp quân Triệu đương đuổi theo vua Thục chạy về phía kẻ bể. Voi ông Đô Nồi tắt lęn trước. Thế mà đến lúc nhô ra, lại phải quay vào. Vẫn quân Triệu rợp đường. ạng Đô Nồi bứt rứt:
-Giặc đông thế nŕy, vua chủ ta làm sao đi thoát được. Tướng Vực nói:
-Nhưng chỉ có ta biết đường tắt qua vůng đồng trũng xuống kẻ bể. Phải vượt lên chặn đầu, may ra mới gặp được vua chủ ta. ạng Đô Nồi ngước mặt lęn. Trời khuya đen thẫm. Vňm sao nửa đęm sáng rộng. ạng Đô Nồi kęu to:
-Vua chủ ta! Vua chủ ta! Tiếng thảm thiết, tiếng ai oán, lại như tiếng khóc rống. ạng Đô Nồi cứ kêu liên tiếp thế. ạng Đô Nồi đương đau đớn lắm. Một lúc sau, tướng Đống mới dám thưa với bố:
-Thế nào ta cũng chặn được chúng nó. Câu nói của người trẻ tuổi đă khiến được ông tĩnh lại. Đoŕn quân lại trỗi đi. Rồi những con voi trận vượt lęn trước, đă tới được quăng đường trổ ra, toả lęn trên ngã ba. Ngựa vua Thục đương chạy tới. Ba bố con ông Đô Nồi đánh ngược trở lại, ngăn lŕn sóng quân Triệu. Ngựa vua Thục chạy vượt lên. Bố con ông Đô Nồi càng thúc xuống. Quân Triệu chết chồng đống, vẫn ùn ùn tới. Đến trưa hửng, máu đỏ cháy trŕn một vùng đồi bãi. Quân Triệu càng tới đông đặc, đen nghịt. Đến lúc trông vŕo, không trông thấy voi tướng Đống, tướng Vực. Không thấy một bóng quân quan trai tráng Chięm Trạch đâu nữa. ạng Đô Nồi thúc voi xả vŕo giữa đám quân Triệu. Con voi trận đă bị một loạt giáo xiên vào tai. Voi chồm lên, quăng vòi, túm được cả bọn lính Triệu đương ngấp nghé giơ giáo. Nhưng một loạt giáo khác đă đâm tới sau lưng. Con voi tung vňi, đạp hậu hai chân, rồi quị xuống. ạng Đô Nồi giơ tay búa kęu to:
-Vua chủ! Vua chủ! Rồi ngụp xuống. Lũ lượt bóng đen, bóng máu quân Triệu trčo qua.
* * *
Một vùng mênh mông suốt ra tận bể. Những dãy núi lổm nhổm sừng sững. Tiếng sóng ì oàm dội quanh tưởng không bao giờ dứt. Trần gian thăm thẳm, chỉ còn nghe có tiếng sóng. Vua Thục một ngựa phóng rạp xuống. Những cồn cát trắng liên tiếp nhấp nhô. Xa xa rồi gần lại, mỏm núi Mộ Dạ đen sẫm lưng trời, chắn ngang ra tận mép bể. Vẫn một ngựa vua Thục băng chạy. Sau lưng, chiếc địu mŕu chàm buộc chặt vào yên. Mỵ Châu vắt tấm chăn lông ngỗng lęn vai. Bốn phía trời đất xám ngăn ngắt. Chiếc ngựa bố con vua Thục tạt về phía tay mặt. Tiếng ốc lệnh của quân Triệu sôi lęn, như đẩy giật người ngựa trở lại. Sau lưng, tiếng reo hň lại càng sôi sục. Con ngựa lùi, dựng đứng hai chân trước, hí một hơi dài rồi ruổi đường phăng phăng theo. Một bęn, miên man ào ào sóng vỗ cao ngất. Một bên rực trời lửa cháy. Lô xô những bóng ngựa, những ngọn giáo dựng đứng. Quân Triệu rầm rầm lướt qua.
* * *
Trọng Thủy dừng ngựa. Đồng băi hoang vu im lặng. Lác đác, những chiếc lông ngỗng trắng như hoa cỏ may bay. Chiếc đậu tręn cát, chiếc bảng lảng rơi. Trọng Thủy hấp tấp giơ tay với. Những chiếc lông ngỗng như bóng mây bướt qua. Không nắm được. Trọng Thủy lại hăm hở thúc ngựa. Bốn phía sůng sục ốc lệnh quân Triệu.
* * *
Ngựa bố con vua Thục vẫn ngật ngưỡng chạy theo mép bể. Con sóng tung bọt trắng xóa lên tận lưng ngựa. Trong kia, những bờ tre cháy tuôn khói cuồn cuộn. Những bóng người rối loạn. Đoàn ngựa và bóng quân Triệu đen sì, giáo dựng tua tủa nhọn hoắt. Tiếng ốc inh ỏi, rùng rợn. Trước mặt, núi Mộ Dạ mỗi lúc một gần đến sẫm mắt lại. Rồi núi đột ngột chắn ngang chân ngựa. Sóng bể trào lên lưng đá. Không một lối vượt qua được. Tiếng sóng. Tiếng hň hét. Tiếng ốc rúc. Vua Thục nhảy xuống mặt cát. Vua Thục chống mũi kiếm, chắp tay nhìn ra. Mặt bể càng gào dữ dội. Trong cơn nguy, mặt vua chủ đỏ rực, vẫn trầm mặc, oai nghi. Vua Thục chắp tay, nói to:
-Thần Rùa! Thần Rùa! Giặc đuổi tôi đến bước đường cůng rồi. Thần Rùa cứu bố con tôi.
Mặt bể bỗng phẳng lặng. Một con rùa bơi lướt ra. Có phải vẫn con rùa ấy thường bơi nhởn trên sông dưới chân thành với chim bói cá, với lá trang, lá súng. Những ngày xây thành rộn rã. Những năm hội rửa nỏ. Con rùa ngoảnh mặt trông cái hôm Mỵ Châu, Trọng Thủy lên thành cấm. Những mùa gặt hái đông vui đồng băi ven sông. Rùa tha thẩn lượn quanh đóa hoa súng trắng muốt. Rùa nghếch đầu lên đám lá trang nhìn lên. Vua Thục chắp tay vái thần Rùa đương bơi tới. Tiếng vang trong nước:
-Giặc sau lưng nhà vua chứ đâu.
Vua Thục thoắt quay đầu lại. Vua Thục vung gươm chém quanh một vùng. Bốn bền chỉ nghe tiếng gươm bay vù vù trong tiếng sóng dào dạt. Vua Thục không thấy gì.
-Giặc ngồi sau lưng nhà vua đấy kia. Vua Thục rùng mình. Sắc mặt đương đỏ rực bỗng đen xám như chân sóng. Vua Thục quắc mắt nhìn Mỵ Châu. Mỵ Châu rụng rời hai tay, buông tấm chăn lông ngỗng rơi xuống. Những cơn sóng thần kéo ngọn nước lên cao như đỉnh lũ. Vua Thục, Mỵ Châu. Lưỡi kiếm. Cái chăn lông ngỗng. Vŕ chiếc ngựa. Tất cả cuốn vào lòng bể.
* * *
Trọng Thủy vẫn mải miết đuổi men theo băi cát. Chiếc lông ngỗng trôi bập bềnh trên mép nước. Những chiếc lông ngỗng bay lơ lửng trước mặt. Trọng Thủy lại giơ tay. Nhưng không thể bắt được những đốm trắng hững hờ như bông mây thấp thoáng. Trọng Thủy thúc ngựa lồng lęn. Xa xa, ánh lửa sáng rực. Tiếng quân Triệu hò reo tới đâu, lửa lại dần dần viền suốt chân trời. Những ngọn giáo. Những bóng ngựa nhấp nhô. Trọng Thủy dường như không mảy may chạy dưới những chiếc lông ngỗng bay rải rác, lúc thấy trước mắt, lúc lại đâu đâu. Đến băi cát chỗ ấy. Những vách đá chân núi dựng đứng. Từng đợt sóng từ ngoŕi bể cuồn cuộn xô vào. Sau lưng, lửa đốt làng vẫn ngùn ngụt. Những tiếng ốc lệnh rít róng. Trọng Thủy khiếp sợ. Bóng lửa ghê rợn. Tiếng ốc rít choáng tai. Con ngựa chồm lên. Đến ngấn nước, lại lùi lại. Trọng Thủy ngửa mặt lên trời:
-Mỵ Châu! Mỵ Châu ơi!
Rồi trố mắt nhìn ra bao la. Chiếc lông ngỗng rập rờn trên sóng ngoài kia. Nhưng với tay thế nào cũng không được. Những chiếc lông ngỗng lại xa đi, như không. Trọng Thủy rú lęn:
-Mỵ Châu! Rồi người ngựa chồm thẳng vào làn sóng vừa quật xuống.
XIV
Hơn hai năm sau. Tręn bến Lú. Những cây gạo cổ thụ gốc lên vè sần sùi như gốc đa. Giữa tháng hai, hoa gạo đỏ cháy. Có phải sông Lú đến bây giờ mới đáng lŕ sông lúa, sông thóc sông gạo, như người xưa khi đặt tęn cho con sông mong ước. Những thúng, những thuyền ve vé bơi ra. Suốt dọc bãi, ruộng ngô, đồng khoai lang, khoai sọ, những bãi vừng, bãi lạc xanh mởn. Quanh nhà, cả trên mái các vạn chài neo sát bờ, những dây bí, dây bầu, dây gấc leo lên, buông quả xanh, quả đỏ lủng lẳng. Con chim tu hú bay qua. Tiếng chim báo hiệu quả vải chín vŕ nắng mới đă về, lại mùa mưa rào sắp tới. Làng mạc hai bên sông san sát. Ngày trước với bây giờ, mỗi thì mỗi khác, nhưng vẫn làng ấy, phường ấy, đồng bãi ấy. Người ta dệt vải, đan lát, đơm đó, đánh chăo, đánh lưới... Mọi nghề, mọi cách lo toan sinh nhai, mỗi ngŕy một đông đŕn hơn trước kia. Điều ấy thật phải với công sức con người. Nhưng không hợp với cảnh đất nước lại bị gông đóng lần nữa. Hai bęn sông Lú, mới hôm nào các làng sửa lễ rước trâu ra đất ra đồng, cây lúa cắm xuống, rồi mở hội. Từ những ngŕy mưa phùn, mưa dây mưa rợ, cho đến khi nắng mới, hoa xoan tím thơm ngan ngát quanh làng. Một tàu cau vàng chóe rụng xuống. Bẹ hoa cau tõe ra, vàng hây, phảng phất hương cau cả vùng. Đâu đâu cũng mở gióng vật, đấu voi, đánh phết, đánh cňn, hát xoan, hát mới, cả các lão bà, con gái, người nạ dòng, các chạ các làng đi hội.
Điều lạ lůng, cõi nào cũng đồn đại phen nŕy đŕn bà các cõi sắp nổi tướng. Chưa biết thế nào, nhưng nghe khắp nơi đă mở hội. Trông vào các bãi quanh làng trước bến Lú, những mái trúc, mái cọ, phên nứa, những chõng tre cật, những tấm phản, từng chiếc chiếu của các lão ông lão bà đương tất bật cất lên. Chỉ làm ngoãm mái bếp mà kỹ lưỡng như nhà mới. Rồi khuân ra nhan nhản nồi niêu bếp núc. Đầu gò cỏ, giữa cánh đồng cao, các chân bãi đã được san phẳng phiu thành những gióng vật, rào giậu cẩn thận. Ai ở đâu về hội cũng sà vào ngồi ăn uống, chỗ nào cũng tự nhiên như nhà mình. Những chõng mâm cỗ, bát đàn, bát uống nước chè tươi, sừng trâu và chén tướng uống rượu. Trên vách cài cây đèn, đĩa đčn... Cạnh những ông đầu rau, nhấp nhô một dăy vại, thạp, chum đựng gạo, đỗ. Lại dao, thớt, rá, rổ, nồi, vň, bình, xếp ra hàng khiên, hàng xấp. Chập tối, gió se se còn hơi lạnh. Những đống củi sưởi um khói lên, lẫn với sương chiều buông thấp, giăng kín một vùng. Có làng dắt đến từng đŕn bò, đàn dê. Lại còn vịt, còn ngỗng. Và cả phường săn ngày nào cũng khiêng hươu, nai, cả lợn rừng, gấu trong rừng về. Các vạn chài đội lên bờ những mẻ lưới cá trôi, cá trắm, cá anh vũ. Không biết nhà ai, mà nhà ai cũng ganh đua làm thế -người ta đặt ra các ngã ba ngã tư đường, những chiếc nong đại đựng cau tươi đă bổ sẵn, những xếp trầu không, bình vôi, cây vỏ đỏ sẫm. Có chỗ trầu đă têm ra miếng, cẩn thận đặt trong tàu lá chuối lót. Có chỗ để nguyên, người ăn cúi xuống nhặt, têm lấy.
Mùi trầu cau đầm ấm quyện khói hương đen tỏa nồng nŕn. Các làng hai bên bờ sông Lú đương rộn ràng vào hội. Tiếng sáo, tiếng kèn lá, cả đến cái kèn cọng rơm con trẻ cũng tíu tít chộn rộn như đŕn chim ri vừa bay vừa kêu. Đông vui còn hơn cả làng xóm vào mùa gặt hái chuyển ra ở đồng bãi cho gần hạt thóc. Người ta đem khung dệt, cối giã nâu phơi vải. ống nước dựng hàng dãy. Những bếp cơm lam đã đỏ rực. †n vội, còn đi xem ngay đây. Các gióng vật đă đůng đůng nổi chiêng. Mấy đám trẻ đương xúm xít mải chơi cờ chân chó dưới băi cũng bỏ chạy lên. Ai cũng biết, nhưng ai cũng kín miệng. Hội này hội luyện quân to. Làng xóm nào cũng ra cả đám hội đấy. Độc có quân quan người Hán không biết. Quan Hán thủ thành các quận huyện chỉ biết tục lệ hằng năm làng nào cũng vào hội. Nhưng không chút nghi ngờ khác. Điều ấy cũng đúng sự thật. Hội các tướng ả, các tướng ông ngoŕi bãi đầu bến quần tụ cơ man là người. Toàn những tay đô, những cô gái son rỗi, tóc quấn ngược đỉnh đầu, vừa đi vừa chạy sầm sập như voi, như ngựa. Nhiều nơi từ xa tới. ả Xoan xưng tướng tręn động Đại Man kéo hŕng trăm người ở núi về hội hát. Từ khi người anh của ả Xoan, ông đầu họ ở Đại Man, bị quan thái thú lừa gọi về Luy Lâu rồi giết đi, người Đại Man đă có ý khác. Mối thù của ả Bát Nàn ở Phượng Lâu với quân Hán, cả đến người ngoài cõi cũng đã rõ. Bởi đâu Bát Nàn tụ tập có đến hàng nghìn người về Phương Lâu vỡ bãi, làm quân. Cô Nàn xưa kia đẹp nức tiếng một vùng. Tiếng đồn đại đến Luy Lâu.
Quan thái thú Tô Định gọi bố Nŕn về nói muốn đem con gái ông lăo vào làm nàng hầu. ạng lão lắc đầu: con gái tôi có chồng rồi. Thái thú hỏi: chồng nó là ai? Rồi giết lão, giết cả Phạm Danh, chồng cô Nàn. Cô Nàn trốn xuống đất kẻ bể Tiên La. Rồi mộ người kéo về Phượng Lâu. Hai chị em Ngọc Trinh đều bị quan thứ sử thŕnh Mi Linh bắt làm thiếp. Chỉ có Ngọc Trinh thoát được về Lũng Ngòi. Boa nhiêu các ả khác. Nguyệt Diệu ở Lũ. Chị em Hà Liễu, Hà Tơ ở Thản. Phật nguyệt, ả Lam trên ngọn sông Cái. ả Quế, ả Lã, ả Chúa Bầu...
Mấy năm nay, suốt các dọc sông, ngược đến các man động, đâu đâu cũng có các tướng ả ngấm ngầm nổi quân. Người các cői trẩy hội, chẳng thể phân biệt chỗ quân tướng các ả kéo về. Thế nào bọn chim mồi quân Hán cũng có nghe ngóng. Nhưng không sao rõ được. Người đi hội cũng một bụng như quân trẩy. Người đi hội cũng lŕ quân ta. Ngay ở ngã ba sông Cái, có ả Đề với em là chàng Hác, lại các ả Lự, ả Nương, ả Nang, đưa cả nghìn người đến ở Mạc, ở Náng -ở những nơi khuất nẻo quanh năm đęm ngày tha hồ tập luyện. Trên bến, một gióng vật đương đông nghịt người xem. Khéo sao mŕ các tay đô hôm rŕy đều lŕ các ả ở lò Thản, ở Lũ, ở Tiên La vùng bể. Ai cũng trầm trồ khen các đô nữ kẻ bể, bước ấn gót như chân tượng, nặng trình trịch tưởng lún cả đất. Các đô nam bên Chu Diên, các lò ở Mi Linh mới vào gióng đã thua ngay. Cả bọn lủi về lều nằm thẳng cẳng từ sáng. Đến phiên các ả đô ở Tiên La, ở Lũ, ở những lò toàn các ả đô, từ hôm vào gióng chưa thua keo nào. Người xem lại càng nô nức. Các ả đô kẻ bể Tiên La thật quả được như tiếng đồn. Chắp tay bước vŕo gióng, ngẩng mặt lên chững chạc trình làng chạ. Cô nào cũng lưng cánh phản, ngực yếm cổ xẻ đầy như mâm xôi, cổ tay đung đưa vắt vẻo, trňn mà chắc như cuộn chão quăng ra chỉ rình giựt ngã người ta. Lại đóng khố ba khố bảy, như đŕn ông. Hai đầu gối xuống tấn ngang như thạch bŕn trên hai bắp chân thon thon. Lạ thay, suốt mấy lò nam, đến các tay sừng sỏ cũng chỉ cố vào đến "miếng tay tư", đă không chịu nổi cái lẳng giựt ngã chỏng gọng.
Có đô lň đuối đến nỗi mới vờn chạm tay các ả mà đã bổ nhào. ở đám nào, các ả cũng tranh được hết các chức đô, chức xứ, chức dů, chức lực. Bao nhiêu giải vật, các ả lĩnh cả. Tiếng cồng vào vật âm vang xuống mặt nước. Người hai bên sông đổ lên bến, tíu tít, hối hả. Các nan, các thúng lao như thoi rúc tua tủa vào bờ. Đến các hội nỏ càng nghịt người. Nghề nỏ vốn được chuộng nhất trong phép võ. Từ thời trước vẫn thế. Các tay nỏ giỏi cả bắn bộ, bắn ngựa, bắn trúng đích tên cắm lên nhau một chuỗi dài như cây roi. Người xem càng mê mải. Càng tấm tắc, vì các ả tay nỏ về đông vô kể. Có bãi toàn nỏ nữ. Một ả tay nỏ thoăn thoắt bước ra. Người mảnh khảnh như thanh trúc. Váy ngắn ngang gối. Tóc quấn tròn kín vành tai bằng chít khăn vuông. Nhấc cánh nỏ trên vai xuống, một tay nỏ trai cũng bước tới. Tay nam tay nữ cách nhau vài sải, nửa bàn chân trước cùng đặt chấm giữa bờ cỏ. Trai, nỏ ngang ngực. Gái nhấc lên cao, đỡ đuôi nỏ tựa má bęn phải. Cánh nỏ, dây da trâu, nặng nhẹ đă được so bằng như nhau. Nhưng giơ nỏ khác nhau, trai tě ngực, gái kề lên má. Xa nghìn bước chân, những mũi tên vút ra liên tiếp theo cánh nỏ bật. Mũi trên người nọ cắm trúng lên đuôi tên người kia. Một làn tên rúc vào một chỗ, chốc lát, chắp thành chiếc giáo dài đâm giữa cây gỗ đích.
Mỗi khi mũi tên trúng đuôi tên, tiếng reo lại sôi lên từng đợt. Cả dưới sông, các vạn chŕi cũng vang động như cồn sóng. Bốn phía ầm ầm tiếng chięng, tiếng trống các đám vật, đám đấu roi, đám thi nỏ. Lều lá gồi cột ngoẵm cắm chi chít từ quanh băi ra khắp đồi đất xung quanh. Phường thui trâu, thui lợn đă nhóm, khói um lên cao bằng ngọn tre. ở đầu bến, khuất giữa một lùm tre kín đáo, các tướng ả đương có cuộc hội quan trọng. Đŕn voi nằm như gò nhấp nhô ra tận cửa rừng. Quản tượng vẫn ngồi trên bành, tay cầm ngang chiếc vồ. Những con voi canh gác, lúc nào quản tượng cũng phấp phỏng. Nhỡ có việc khẩn, cốp một vồ hiệu xuống trán voi, cả trăm con voi trận cůng đứng lęn. Nhác trông chỉ thấy những lều lá lều rơm dựng tạm lúp xúp trong chân tre. Như nơi trú chân của các chòm xóm xa về hội. Nhưng bên trong, quân tướng đã khuôn phép đâu ra đấy. Các ả Bát Nŕn, Ngọc Trinh, Nguyệt Diệu, Hà Tơ, Hà Liễu, Quế Lan, Chúa Bầu đã về kịp. ả Lê Chân dưới đường bể. ả Thanh Thiên tận cửa Hợp Phố trên Nam Hải cũng tới. Ai nấy gọn con cón, thắt lưng bó que, váy quai cồng ngang đầu gối, bước xăm xăm, như vừa từ gióng vật ra. Mọi người nghięm nghị, đăm đăm nhěn Trưng Trắc. Giữa bãi cỏ, Trưng Nhị bị trói, hai cánh khủy trần tay ghì vào một gốc tre đã phạt ngọn. Trưng Nhị cúi mặt, nước mắt ròng ròng. Trưng Trắc đứng dậy, đương cơn giận dữ, cắm cây giáo ngập cả mũi xuống đất. Trưng Trắc nhěn các ả tướng đứng đôi bęn:
-Việc quân chẳng phải trò đùa của trẻ trâu, ai cũng biết thế rồi. Hai bên im phắc. Bàng hoàng, thảng thốt, Trưng Nhị ngẩng mặt lên, nghẹn ngào:
-Lạy chị, tội em đáng chết. Em chỉ xin chị cho em được nói, rồi em chết mới nhắm mắt được. Trưng Trắc lạnh lůng như không. Trưng Nhị vẫn giàn giụa nước mắt, dõng dạc nói to:
-Nhưng mà cả năm mươi tên quan Hán chết hết rồi. Còn tên nào, voi đã tung xác tan xương ngay đấy. Tay em giết Ngụy Húc, chính tay em hạ nó. Mà chậm thì cũng chỉ nội đêm nay, hổ báo trong rừng kéo ra, tha hết xương thịt chúng nó đi. Bọn quân quan Hán ở Mi Linh còn biết dấu vết đâu. Lời Trưng Nhị quả quyết, cứng cỏi. Xung quanh cứ lặng ngắt. Dạo ấy, các quận huyện khắp cõi, quân quan Hán đi đốc thúc nộp cống. Đă đến kỳ bộ Giao Chỉ phải đưa đồ triều cống về Trŕng An. Năm nay gánh vác thật nặng nhọc. Năm voi trắng. Trăm con công đực múa. Với hŕng nghìn trai tráng khỏe nhất đem đi lŕm lính. Lại thêm nghìn cân, nghìn nén hồ tiêu, hương đen hương trắng... Lại thợ khéo đúc trống, bắt cả phường đi. Từ Luy Lâu đến các thŕnh, quân quan Hán tỏa khắp. Quan trấn thủ thành Mi Linh sai tướng Ngụy Húc xuống đốc thúc các làng hai bên sông Lú. Đâu đâu cũng đă được tin dữ ấy. Không thể yęn, không thể chịu được nữa. Chỉ cňn đợi lệnh tướng bŕ Trưng Trắc thế nào. Voi trắng, chim công chưa nã đâu ra đủ, đă lại ra lệnh mới. Đồ tiến cống đi Trŕng An hay nộp cho các quan thái thú, thứ sử ở đây. Không ai biết được. Nŕo lợn đen tuyền phải biện đủ cả trăm. Người lên rừng bóc quế. Người xuống bể làm muối. Nơi nào không đủ lệ thì xử giảo, xử chém. Có chỗ bêu đầu. Có chỗ họp người lại bắt đứng xem voi giằng xác. Mỗi năm một cơ khổ hơn. Người các nơi đi tha hương, trốn vŕo rừng ở. Đương giữa hội Trưng Trắc đă kịp sai Trưng Nhị lên dò la đường Nguỵ Húc xuống. Trưng Nhị cho mấy người đưa thuyền ngược, giả lŕm phường chài, làm bọn người đi đón lúa. Quân Hán chặn thuyền lại, lấy thuyền sang sông. Sang được bờ bęn này rồi, quân Hán giơ dao bắt những người chở thuyền phải bỏ thuyền lên đưa đường. Thế lŕ đŕn voi Trưng Nhị trong cửa rừng xông ra. Cả năm mươi tęn quan quân Hán tan tành. Trưng Nhị vung búa đánh ngã tướng Ngụy Húc, rồi thúc voi xéo lên. Voi quật, voi xéo, cày xác người lẫn với cây đổ. Lá cây cũng lấp lánh dính mưa máu. Trưng Nhị ngước mắt, nhìn chị:
-Chị ơi! Trưng Trắc nói:
-Bọn thủ thành Mi Linh đã biết Ngụy Húc đương xuống đây. Đằng nŕo chúng nó cũng đi těm. Thế là nhỡ cả. Đã bảo việc quân không trò chơi trẻ trâu. Nay chỉ có một lệnh. Các ả đã biết. Trưng Nhị kêu to:
-Cho em được chuộc tội. Chị ơi! Cho em... Lúc ấy, tiếng chân ngựa bỗng rầm rập trước băi. Mọi người cùng hốt hoảng nhìn ra mấy người đương hấp tấp xuống ngựa. Đặng Thi Bằng
-em lạc tướng Thi Sách
-chạy vào đầu tiên. Mọi người sửng sốt. Bởi cả đám người ngựa ấy, đến những cánh nỏ đeo lưng cũng đều xám đen. Không biết tại ám khói hay đấy lŕ máu khô. Đến tận nơi mới biết người nŕo cũng bê bết máu khắp mình. Vừa trông thấy Trưng Trắc, Thi Bằng sụp xuống. Một lúc vẫn không ngẩng lên. Mấy người phải đến vực Thi Bằng dậy. Thi Bằng kêu to:
-Tô Định giết quan lạc tướng rồi. ở Vũ Ninh, ở Chu Dięn cũng đương hội đám như ở Mi Linh đây. Bọn chim mồi đánh hơi được những điều khác mắt đă báo cáo việc tụ quân của Thi Sách với bọn quân quan Hán ở Luy Lâu -vốn chúng đă nghi quan lạc tướng từ lâu. Giữa đám chọi trâu ngoŕi thành Chu Diên, thình lình, quân Hán ập đến đâm chết Thi Sách đương đứng đánh trống thúc quân đấu. Tất cả người về hội, một vůng làng mạc đều bị giết chết hết. Chỉ còn Thi Bằng với mấy người thân tín chạy thoát được về đây. Bấy lâu, vợ chồng Trưng Trắc cũng như bao người tâm huyết các cői, đâu cũng ngŕy đęm lo công cuộc chống quan quân Hán. Thi Sách và Thi Bằng -hai anh em họ Đặng ở Chu Diên. Các quan người Hán thủ thành vẫn coi họ Đặng ấy như những quan làng làm mọi việc sai dịch. Nào đốc người đi đŕo mỏ đồng, bóc quế, nŕo săn bắn chim công, nŕo bẫy voi cho quận huyện lấy của nộp cống. Thi Sách ở bên Chu Diên. Chị em Trưng Trắc vẫn ở lại quê Mi Linh. Tảng như mê mải đồng bãi, nông trang, quanh năm cặm cụi chẳng khác mọi người. Nhưng cứ đến tháng hai, các nơi lại trẩy hội, tụ quân... Câu nói của Thi Sách với quân gia, các cői nghe biết đều ngẫm mŕ đau.
-Tần ở Hàm Dương. Hùng ở Phong Châu. Thục ở thành Loa lẫy lừng đất kẻ chủ. So với Tần Hán, các vua chủ ta trước nay chẳng đời nŕo kém cạnh. Kịp khi phải Triệu Đŕ kiêm tính, vận nước nghiêng ngửa, nhà Hán mới nhân cơ hội xâm chiếm, bắt chia quận huyện, ta phải mang vạ mất nước từ đấy. Ai là người phải nhớ, trước bảo lại sau: nước ta không phải quận huyện nhà Hán. Nước ta có chủ, có vận hội, có kỷ cương ta. Người dòng dõi lạc tướng mưu lược ấy bây giờ bị quân Hán sát hại rồi. Trong quân đương im, bỗng nhốn nháo lên. Ngọn giáo ở tay Trưng Trắc rơi xuống lúc nào không biết. Các ả Chúa Bàu, Hà Tơ, Hà Liễu, Nguyệt Diệu bối rối rảo bước về chỗ quân đóng. Trưng Trắc nói to:
-Các ả, các ả nghe lệnh tôi. Đęm nay về chiếm Mi Linh. Trưng Nhị vẫn bị trói quì chơ vơ giữa nhốn nháo. Trưng Nhị hét to:
-Cởi trói cho tôi! Cởi trói cho tôi! ả Bát Nàn bước tới, rút dao lưng cắt thừng trói Trưng Nhị. Trưng Nhị lật đật đến trước mặt Trưng Trắc, sụp xuống:
-Xin cho em được theo chị về lŕm cỏ giặc Hán ở Mi Linh. Các đám hội bỗng hóa thŕnh đoŕn quân trẩy rầm rộ. Những voi ngựa, đoŕn người cưỡi trâu, những xe trâu của các đám cơm thi đă thành đội thổi cơm cho quân và những gông cỏ quẩy theo cho ngựa cho voi. Giữa trưa mà dọc sông Lú bụi lầm lên như sương chiều bốc. Tang tảng sáng, đến chân thành. Các trạm canh trên thành tuyệt nhiên không hay biết. Đầu cầu qua hào đã bắc từ gà gáy. Như mọi sớm, người trong ngoài thành ra vào lấy nước, cắt cỏ, kiếm củi, trông thấy quân ta, thế là nhập bọn luôn. Quân Hán trong thành không kịp mở mắt. Các trại quân bốc cháy trong lúc chúng còn ngái ngủ.
Nỏ bắn xuyên lửa, người chết cắm trên giường. Trời dựng sáng. Làn sương mỏng phủ chân núi Ba Vì bên kia sông Cái loãng ra, cất cao lên. Khói nghi ngút trên khắp các vùng thành. Những con voi vẫn đương lồng lộn quăng quả, vớ những chiếc cột gỗ, cột đá, tung lęn. Trưng Nhị thúc voi đến trước voi Trưng Trắc. Hai con voi chiến khắp mình vấy máu đen sẫm. Trưng Nhị cắp búa, chắp tay:
-Chúng em đă làm cỏ sạch bọn Hán trong thành này. Trưng Nhị giàn giụa hai hàng nước mắt. Rồi suốt ngày đến tận đęm, trong ngoài thành Mi Linh đuốc đóm như sao sa. Các ngă ba ngã năm lửa củi rừng rực lẫn sáng trăng, đęm tỏ như ban ngày. Con cáo chạy qua lạch nước cũng trông rõ mồn một. Từng đám, mỗi người một bó đuốc, đi xoi mói các khe vách, gốc cây, bụi cây, hố cỏ. Xem có cňn đứa nŕo trốn quanh quẩn. Người các làng ven nội cũng kéo vào. Tù và rúc ánh ỏi bốn phía. Tiếng hò hét suốt đêm. Có người chạy qua kể lại đằng kia tìm được một quân Hán núp trong hốc cây thị. Lôi ra, đă chết cứng. ánh đuốc, tiếng tů và, người reo đã làm nó đứt hơi từ bao giờ. Vừa sáng, lại nghe các phía xung quanh dậy lên ầm ầm. Đấy là người dọc các vùng ngoài sông nghe tin các tướng bà hợp quân về đánh Mi Linh. Cứ thế, các làng ùa theo những đoàn quân trẩy về phía ánh lửa cháy. Suốt đêm chạy bộ, ngựa voi bồn rầm rập. Tiếng reo không ngớt. Những toán quân nghĩa đã về tới. Quân ông Mệnh Đạo, quân ông út ở Ngọc Lũ. Anh em Nguyễn Trĩ, Nguyễn Lĩnh ở Hợp Lý. ạng Cả Công dưới Thanh Oai lęn. ạng Lê Tuấn trên ngọn sông Cái đưa về mấy trăm con trâu, vừa trâu tải lương, vừa trâu trận. ánh lửa thięng thành Mi Linh đã gọi về được cuộc hội quân to nhất. Các cõi trông thấy nhau cả mừng, mới biết bây giờ cũng có người nổi lên. Trưng Trắc nói:
-Trăm cői nước ta đă bao lâu sa vào kế hiểm giặc Triệu rồi lại sang tay giặc Hán, trải mấy đời khổ nhục. Nhưng lòng người không ai quên việc quân, vẫn lấy cánh nỏ mũi tên làm trọng. Chư ông đã biết quan lạc tướng ta phải thái thú Tô Định sát hại, cả vùng Châu diên bị đốt trụi. Thế là giặc biết được chí căm thů của ta rồi. Tôi thiết nghĩ nhân lúc này, cần tức khắc đánh Luy Lâu, trừ sạch hậu họa mới được. Mọi người đều reo lęn: cơ trời chính là lúc này đây. Từ Mi Linh lên Vũ Ninh không phải đường sá chốc lát. Những cánh rừng tre trúc bạt ngàn, những ngon sông ngọn suối trong núi đổ ra. Quãng quãng đồng bãi người ở đều có thành lũy quân Hán. Phải diệt nhanh, không để một đứa nŕo thoát được về Luy Lâu. Có phải cơ trời chính lŕ đây. Đă bao năm, các quan Hán thủ thŕnh quận huyện đều sướng tai nhớ câu nói của thái thú Tô Định:
“ở đất nŕo có tên thổ hào ngỗ ngược thì quan thứ sử hẵng bóp cổ nó. Có đám thổ hào càn rỡ thì ta đánh. Thổ hào cả bộ Giao Chỉ này bạo hành thì quân triều ta sang dẹp. Đấy trông, thế ta như núi Thái Sơn, làm sao chúng nó dám ngóc cổ". Câu nói ngông cuồng đã làm cho các quan Hán ngước mặt lên cười hê hê như đười ươi giữ ống. Mọi việc phòng giữ quả có phần trễ tràng từ lâu. Các đạo quân từ Mi Linh đă tới bãi Trường Sa ngoài cửa sông hát. Người, ngựa, voi, xe tải lương, giáo, đinh ba, tên nỏ đóng lại giữa vùng cát đỏ rực. Trưng Trắc hỏi:
-Quân ta phải tiến gấp lên. Quyết làm cỏ Luy Lâu, không để chúng nó kịp trở tay. Được không? Mọi người cůng nói được. Trưng Trắc ra lệnh:
-Các tướng ông đưa quân đánh vŕo thành lũy quân Hán theo dọc chân núi. Không để một mống sống sót chạy về Luy Lâu báo trước. Các ả cùng tôi trẩy quân thẳng Luy Lâu. ạng Mệnh Đạo rút dao lưng, giơ lęn, cười to:
-Hay lắm! Hay lắm! Ta nhổ quân đi thôi. Lễ tế cờ xuất quân giữa băi cát. Một cây bương đă chặt ngọn cắm trên gò. Dưới chân cột, một con bồ nhìn mình vặn rơm, mặt gõ bằng mảnh gỗi mộc. Mỗi đạo quân cả hai mươi mốt tướng cử đến một đội mười người. Mỗi chiến sĩ giơ nỏ thét:
-Tô Định! Mŕy phải chết! Phát nỏ cắm giữa mặt bồ nhìn. Mười mũi tên quân cắm chăm chắm xung quanh chân tên nỏ tướng. Mặt Tô Định chi chít như lông nhím mọc dựng ngược. Trưng Trắc giương nỏ sau cùng:
-Tô Định! Mŕy phải chết!
Hai hàng nước mắt đổ ròng ròng. Tất cả các tướng nhổ quân cùng một lúc. Quân các tướng ông tiến ngược, tỏa như tên bắn vào vùng dọc chân núi. Các thành lũy quân Hán phòng giữ thế xa cho Luy Lâu đều đóng phía ấy. Vừa bắt đầu můa nắng. Buổi sáng nắng chang chang. Giữa trưa ập đến cơn mưa rŕo kéo suốt đęm. Những cánh bãi ngập nước, lầy lội. Thấp thoáng, cái thuyền thúng, chiếc độc mộc qua lại như lá tre rụng có gió đưa quanh các đảo nhỏ nhấp nhô chơ vơ giữa đồng nước trắng. Quân các tướng ông thình lình ập vào lũy quân Hán trong đầm nước. Người làng kín đáo đă đưa thuyền ra chở quân. Voi, ngựa, trâu lội theo từng đŕn. Quân Hán trên thành bước xuống, giơ dùi đánh mõ tan canh. Bỗng dưng thấy một con voi đứng cao vòi vọi giữa sân. Tên quân canh vừa há miệng, một phát nỏ đă xuyên suốt sang gáy. Tiếng tù và đốc trận nổi lên. Cả đến các làng quanh vùng cũng vang động như vỡ con nước. Chốc lát, bao nhiêu quân Hán trong thành đã vùi giữa đống lửa nhà sập. Dãy thành cuối cùng quân Hán trên địa đầu Vũ Ninh trơ trọi giữa cánh đồng chięm trũng. Liên miên, sầm sập những trận mưa rào suốt sáng. Nước còn lên nữa. Trời đất lẫn lộn trong màu trắng mờ. Những đàn voi chiến lầm lũi tiến trong mưa. Cả vùng dinh lũy bốc cháy. Trời vừa ngớt mưa, đã lại thấy lửa ngất trời. Đến nay, mấy chục thŕnh cháy trụi, mà không bắt được một tên chim mồi nào. Tịnh chẳng thấy một tên. Ai cũng biết chắc có bọn chim mồi ở cùng với quân Hán. Thành nào cũng lúc nhúc những đứa đă giàu có. Chúng họ tích trống làm của đem bán cho quân quan Hán tải về Tràng An. Hàng trăm trâu bò, cả chục con voi mới đổi được một tang trống. Của cải chúng nó nhiều lắm. ở các thŕnh lũy, xác giặc chất thành gò. Thế mà không nhận diện ra một đứa chim mồi. Các tướng đă lệnh bắt được phải xử bọn hěnh người dạ thú ấy mười mũi nỏ, mười mũi đinh ba, chết tůng xẻo...
Nhưng chẳng bắt được đứa nŕo. Dễ có khi chúng nó đă mặc áo lửng nhuộm cây, để răng trắng, mang giŕy cỏ bồng. Chúng nó lộn kiếp thành người Hán rồi. Bói đâu cũng không thấy, thảo nào. Người các nơi kéo về theo quân, mỗi lúc một đông hơn. Trong các thŕnh lũy vừa phá được, các lŕng, các phường, người gầy giơ xương chui ra từ những túp lều lợp cỏ lau. Những liễn dưa muối với vừng, vại cà. Không thấy đâu một hạt gạo. Chỉ rặt nõn cau bắp chuối thái ăn trừ bữa. Nhưng quân Hán chết rồi, người già, các mẹ bồng bế cả trẻ con đi theo trai làng, theo quân kéo về đánh Luy Lâu. Trong khi ấy, ở Luy Lâu, cả vùng Vũ Ninh đương nhớn nhác chạy giạt lung tung. Chưa ai biết đâu có những đạo quân tướng ả đương tiến đến. Người ta chạy giặc Hán. Khắp nơi, Vũ Ninh cũng như Mi Linh, quân Hán đương đi lůng các phường bẫy công, săn voi. Lại bắt trai tráng cho quan thái thú lựa người cống về Trŕng An. Con công, con bạch tượng phải nộp đủ. Phường săn trốn vŕo núi. Người trẻ chạy chớn mắt. Thế là cả vùng hoảng hốt. Trên bãi cỏ rộng giữa thành, suốt ngày, thái thú Tô Định ngồi cầm trịch giữa hội đong người. Những bậc đá vây quanh một vůng đất hũm xuống, to bằng mấy cái giếng đất. Những gióng gỗ nghiến bắc thưa, chỉ vừa một người kéo lách nghiêng mới lọt. Dưới hầm đất nhốt một con hổ đen to gấp đôi con trâu mộng. Người lính Hán đưa một người trai tuyển ra giữa băi. Tiếng trống khẩu nổi lên. Người lính Hán đẩy người trai kia chúi xuống khe gỗ. Con hổ đen đă đợi sẵn mồi, xông lęn. Người bị hổ quật chết tươi lập tức. Ba tiếng trống khẩu nổi lên. Một người khác phải nhét xuống. Con hổ đen vồ đến. Người ấy nhanh chân nhảy thoắt sang góc đằng sau. Con hổ đen quật đuôi, húc tới. Người ấy đă lõa lợi máu trong vuốt hổ. Ba tiếng trống khẩu lại nổi lên. Một người trai tuyển khác lại phải đẩy xuống hầm. Người này nhanh, hai lần hổ vồ đều trượt mồi. Con hổ đen quật đuôi, gầm lęn, vụt tới. Người ấy nhảy như bay qua đầu hổ. Năm tiếng trống khẩu hồn dập. Người trai ba lần bị hổ vồ hụt băng měnh qua khe gỗ nắp hầm vọt lên mặt đất. Thoát được ba tiếng trống khẩu, ba lần hổ vồ trượt, thế lŕ người nhanh nhẹn gan dạ ấy được đong vŕo quân để đợi ngŕy đưa về Trŕng An. Quá trưa, xác người chết ứ nơi lưng hầm. Mùi máu tanh làm đất bốc ngùn ngụt như khói.
Bọn quân Hán thả móc câu xuống hầm, kéo xác người lên. Xung quanh bãi đong người không một bóng ngấp nghé. Chỉ phía đằng xa có một đám người nhŕ những ai bị bắt đến đẩy xuống hầm, bấy giờ người ta mới lúi húi chạy lại, bớt đống xác. ánh nắng gay gắt tręn mặt tường thành oi bức, ngột ngạt. Lại mưa rào. Những tiếng trống khẩu vẫn nhỏ giọt rợn người. Tiếng hổ gầm rung đất dưới gót chân. Một người quan hầu đến trước mặt thái thú Tô Định.
-Phía tây thành có đám khói lạ. Tô Định đứng dậy, buông důi. Không để ý chiếc trống khẩu mới gióng có một tiếng. Dưới hầm đất, tiếng người rú trong tiếng hổ gầm xé mồi. Mặt trời đă gác xuống lưng núi Ba Vì. Khoảng không vàng rực các triền núi càng lô xô xanh thẫm. Xa xa, một làn mây đục lờ, lan dài.
-Có người thành nào về báo không?
-Không.
-Mây hay khói đằng ấy?
-Sắp mưa đến nơi rồi. Tô Định hạ lệnh đóng cổng thŕnh. Chạng vạng, những đám lính phňng thành trông ra thấy như những đám mây đen nham nhở lừng lững đến ngoŕi bãi. Những trận mưa rào đầu mùa thường kéo cơn thấp như thế. Nhưng không thấy lạnh ngắt như lúc sắp mưa. Làn mây xám ngắt lăn đến cuồn cuộn. Bốn góc thŕnh, tiếng ốc nổi dồn dập. Nhìn ra, quân Hán nhớn nhác, run cầm cập. Đám mây đen từ chân trời cuốn lại, ấy lŕ đŕn voi, đŕn ngựa, đŕn trâu, những quân quan của các tướng ông, tướng ả với làn sóng người các làng bãi dọc đương ào theo. Thành Luy Lâu bị trói chặt lại. Quân tuần thành vừa thò lên, tên nỏ đã xuyên thủng đầu chết nằm ngửa. Không dám ló lên nữa. Mỗi lúc các đoàn quân bao vây lại bắn một loạt nỏ. Chập tối nhá nhem, quân Hán thập thò ra. Cả hàng trăm đứa chết lăn. Đă ngoài nửa tháng, thành Luy Lâu bị hãm. Không một bóng ra sông lấy được ống nước. Phía trại ngựa, ngày nào cũng thấy bốc khói. Phải thịt ăn cả ngựa. Nao núng lắm rồi. Đęm đến, quân Hán nhảy từ mặt thŕnh xuống hào. Chạy chết hay nhảy tự vẫn, không biết. Một hôm, một đám quân dẫn vào mấy người đóng khố, trần trùng trục. Người vác đòn ống, người ôm cái nẹp gông cỏ. Người nào cũng lấm như vùi. Run rẩy bước không vững. Hai con mắt thao láo.
-Đám người nŕy đương bơi qua hào ra. Sắp chết ngạt dưới bùn mới gặp được chúng tôi lôi lên. Một người lù lù như cục bùn lập cập quì xuống.
-Chúng tôi ở ngoài thành, phải đi cắt cỏ ngựa cho quân Hán. Từ hôm ta vây thành, không về làng được. Tướng ông Mệnh Đạo nhěn lũ người lấm lên tận tóc, nói:
-Bọn Hán quỷ quyệt lắm. Trưng Trắc hỏi lại:
-ạng bảo thế nào? ạng Mệnh Đạo nói:
-Muốn biết bọn này là ta hay là Hán a? Lột truồng chúng nó ra, bắt xuống sông gột hết bùn. Người làng ta đều chân lấm tay bùn, còn đứa nào chân trắng, lưng trắng thì cứ việc đem chặt đầu. Có khó gě đâu. Một ả tướng nói:
-Răng nó đen kia thôi. Một tướng ông nói:
-Từ hôm ta vây thành, nó đã nhuộm xong hàm răng đen rồi. Lŕm như ông Mệnh Đạo nói ấy mŕ phải. Bọn người gồng gánh ngẩn ngơ, dúm dó lại, ngồi đấy. Đợi đi. Đợi chết. Mặt cúi gằm. Trưng Trắc nói:
-Mấy hôm nay, ta đă cho người làng mắc nạn trong thành được về. Thôi lũ này ta cũng sinh phúc cho. Cả nghìn giặc trên thành vẫn đợi chết kia. Ta cốt phanh thây cho được giặc giŕ Tô Định trong bọn ấy. Đám người với cái gông cỏ, tất tưởi bước ra. Hôm sau. Tất cả các đạo quân đánh vŕo thành một lúc. Chỉ giập bã trầu, những nhát rìu bổ xuống, rồi trâu húc, bốn cửa thành vỡ toang. Những tay nỏ lia khắp loạt như mưa. Những vòi voi hoa lên như múa. Cả xác giặc, cả những cột nhà đương cháy, văng tứ tung. Trưng Nhị cưỡi voi đến. Đŕn voi tung vòi dồn đẩy bọn giặc Hán đương bước loi thoi một đám.
-Trình chị, quân tướng Tô Định ta bắt được tất cả đây. Mấy chục quan Hán quỳ gục. Trưng Trắc hỏi:
-Đứa nŕo là Tô Định? Không ai ngước đầu. Tướng Mệnh Đạo quát:
-Cho chúng bay ngẩng mặt! Các tướng Mệnh Đạo, anh em ông Nguyễn Trĩ, nhiều người đă tường mặt thái thú Tô Định. Mặt nó phị trắng, ba chňm râu ria dài ngang rốn. Nhưng không thấy ai dung nhan như thế. Mệnh Đạo quát:
-Giặc già Tô Định đâu? Một quan Hán sụp xuống chân ông Mệnh Đạo:
-Thái thú Tô Định giả lŕm người cắt cỏ ngoài nội, bỏ trốn hôm qua rồi. Trưng Trắc quay nhìn tướng Mệnh Đạo:
-ạng là người đã trông thấy bụng dạ bọn quỷ quyệt. Chỉ vì tôi thấp cơ thua trí mà nó buột đi mất rồi. Trưng Trắc, chắp tay, ngửa mặt lên, nước mắt giàn giụa:
-Thù chồng tôi chưa trả được. Rồi ngã xuống, nức nở. Trưng Nhị chạy đến, nâng chị. Mệnh Đạo nói:
-Cho tôi đi đuổi bắt. Cňn có thể kịp. Trưng Nhị và Thi Bằng cùng xin đi. ả Thánh Thiên, ông Thuông Nhu nói:
-Chúng tôi là người ở Hợp Phố. Thế nào Tô Định cũng phải chạy về qua đấy. Chúng tôi thuộc đường, xin cho về đón đường nó.
Quân đuổi theo Tô Định ngay lúc ấy. Nhưng Tô Định không qua Hợp Phố mŕ chạy về Nam Hải. Các đạo quân ta đánh ngược lęn. Chiếm hơn sáu mươi thành lũy cho tới cửa bể Hợp Phố. Mà không tìm thấy Tô Định. Một tháng sau. Mi Linh vào hội lớn. Chưa bao giờ đất Mi Linh được hội to đến như thế. Quanh thŕnh, những dãy cây xoan, cây đề đương můa rậm lá. Từng tầng lá xanh thẫm, người về hội tránh nắng tụ lại dưới bóng mát tán cây, trông như mở chợ. Quân tướng các nơi, các cõi lặn lội tới. Vùng kẻ bể lên, các xách động trên nguồn sông xuống. Các núi, các ngọn nước ở Hoàng Nham, Khuất Liêu, Mai Sơn thường khi ra Lâm Tây đổi trâu bò, ngựa, ngà voi, sừng tê, trầm hương, sáp ong lấy bát đĩa, thạp sành, cày đồng cày sắt, muối... bây giờ cũng rủ nhau nô nức xuống hội Mi Linh. Suốt một dải từ bên kia núi Ngũ Lĩnh ra đến phía cửa bể Hợp Phố lũ lượt người kéo tới. Đất nước không cňn bóng một tên quân Hán. Hàng trăm năm các cői mới lại được một khi vận hội thế nŕy. Bao nhiêu tin về nỗi vui nỗi lo dồn dập đến một lúc. Có tin vua Hán đă bỏ ngục thái thú Tô Định, rồi đem đầy ra băi hoang ngoài Trường thành. Lại có tin vua Hán quyết rửa cái thẹn quan thái thú phải cởi giáp cắt râu đắp bůn lên người, chạy trốn. Vua Hán đã gọi quân các cõi Quế Lâm, Linh Lăng, Thương Ngô, giao cho Phục Ba tướng quân Mã Viện lo liệu. Hàng vạn quân, hàng nghìn xe thuyền, bạt ngàn dân phu thủy bộ đã đợi sẵn. Mọi việc tiến quân, tướng Mã Viện đương gấp gấp sửa soạn. Một quân bộ kèm một dân phu. Quân thủy có cả vạn dân chài phải theo phục dịch. Phương nam xa xôi hiểm trở, việc quân phải kỹ lưỡng. Khinh xuất mảy may không được. Từ đời Śn, đời Tần, đă có gương tày liếp. Vua Œn chết tại trận.
Tướng Đồ Thư mất mạng. Lại đến thái thú Tô Định để nhục phải đến nhuộm răng, cắt râu mới thoát thân. Mă Viện đęm ngày suy tính, sắm sửa mọi mặt. Các quận huyện từ Quế Lâm lên Trường Sa, nộp thóc, đậu, cỏ khô, cả dê, lợn, rượu và đệm cỏ, giày cỏ, nón lá tích lại. Bao nhiêu dân phu bắt ra lập doanh trại, ngồi tụ đấy. Có lệnh thì khuân vác trẩy theo. Tháng tư, trăng vằng vặc suốt đęm, trời Mi Linh. Khắp các bến đň ngang, đň dọc, người chen chân đổ về. Tręn thành, ngoài bãi, khói thui trâu thui lợn, khói thổi cơm thi nghi ngút từng đám. Trai gái hát xoan, múa mỡi, lęn chiêng đâm đuống vui nhởi canh thâu. Những đám đấu vật, đấu roi, ném cňn, kéo co, đấu giáo, bắn nỏ. Hội đua tŕi cũng lại là hội quân trẩy. Trai gái đến hội khấp khởi mừng mong được vŕo quân ngũ. Những cây đu tung người tay đôi tay ba ríu rít thướt tha hoa cŕ hoa cải. Khắp các dòng sông Cái, sông Lú, sông Thiếp nghìn nghịt thuyền mảng.
Huầy dô Huầy dô Bái hồ là huậy Là hới lên dô Bái hồ là huậy ớ hơ ớ hơ Hầu chạ một mái Cắt dây kéo thuyền Huầy dô huầy dô Huầy dô huầy dô Là huầy dô huậy...
Mấy ngày đã qua, thì nỏ ngựa, nỏ bộ. Đêm nay, đến cuộc thi đấu roi ra quân. Những đống lửa, những cây đěnh liệu khắp từ trong thành ra đã rừng rực cháy từ chập tối. Phía đồi đất quanh cánh đồng trũng đă được san một vùng viền phẳng. Người về xem đấu roi ngồi khắp từ chân ruộng lên đỉnh đồi. Tướng bà Trưng Trắc đứng giữa gióng, nói:
-Bờ cõi ta xưa rày vốn dài rộng ra đến ngoài Ngũ Lĩnh. Dưới chân Ngũ Lĩnh, hàng trăm năm trước, người xưa đă dựng lên vách đá thành Tần thành Việt, chỉ một người một ngựa đi lọt, rành rành như thế. Giặc Hán ngông cuồng đã phải bỏ chạy, phen này quyết không để giặc trở lại được. Tám cői đă về đây ra quân ngŕy mai. Đęm nay vào hội đấu roi cho thiên hạ cả nước được nức lòng.
Những đội cồng khắp nơi đều lęn tiếng một lượt. Tiếng cồng âm u như sấm động rền dŕi xa mãi. Rồi từng đợt trống đồng giọt xuống, tiếng đanh mŕ trầm, sôi nổi, dạt dào. Chốc chốc, một đoàn quân trẩy tới, hai bên đường rừng rực những cây đuốc giơ cao, trong tiếng người reo, tiếng hát, náo nức cực kỳ đến tận quanh băi đấu. Các tướng đều vŕo tay roi. Tướng ả yếm cổ xẻ trần lưng, váy xắn, bước thoăn thoắt. Tướng ông, tay dŕi như tay vượn, quơ một lèo dựng ngang cây roi. Những ngọn roi va nhau chan chát. Ngọn roi chặn xuống, im phắc, rồi lại đột ngột vůng lên, như chớp giật. Cánh tay tướng ông nổi chão. Cánh tay tướng bà trắng ngó cần, thoăn thoắt như cá lượn. Các đỉnh đồi reo ŕ à hơn sấm rền. Người khiêng cả những cây gỗ chất vào đống lửa giữa bãi. Hàng chục tay đấu đứng một dãy hai hàng. Trưng Trắc đọ roi với ả Bát Nàn, ả Xoan với Mệnh Đạo. ạng Thi Bằng với ả Lan, ả Ngọc Trinh so với ông út ở Lũ. Anh em Nguyễn Trĩ, Nguyễn Lĩnh với chị em Hà Tơ, Hà Liễu, ả Phật Nguyệt ở Thản, ả Chúa Bầu với ông Cả Công ở Thanh Oai. Đô Dương ở Cửu Chân, ả Lê Chân ở Ninh Hải. Các tướng ông Thuông Nhu, tướng ả Thánh Thiên ở Hợp Phố. Tít đằng xa, các ông Trần Tuấn, ông Cao Minh, ả Nguyệt Doanh, ông Hùng Báo, ông Cả Lợi, ông Hai Lạ, ả Lự, ả Nương, ả Nang... Bao nhiêu cây roi rập rờn lên trong ánh lửa. Ngọn roi, thân roi gãy đôi, giập nát. Nhưng những bọc nhọ nồi đầu roi vẫn nguyęn. Chưa ai đụng được vŕo ai. Các tay đấu lại hăm hở thay roi. Cho đến nửa đęm, đống roi đă vơi quá nửa. Đám người xem, người đấu cŕng mải mê. Đến sáng bạch, không còn một cây roi lành. Suốt bãi, các tướng ông, tướng ả mồ hôi lấp lánh trong ánh lửa đã nhạt vào buổi sáng mà vẫn phóng roi, vẫn ngang tầm nhau, ngang tài. Các hội chiêng khắp nơi vẫn vang tiếng mười hai chiêng. Suốt đêm đến sáng, đều một nhịp, không một lúc chùng tay.
Chiêng đủm, chiêng boòng beng đánh đôi bốn tiếng vuông đều như bŕn cờ. Chiêng chót nhảy vào như chim hót, Chiêng khõ giòn hơn phách trúc. Cho đến trời sáng bạch, hội chiêng vẫn vững tiếng như lúc chiêng đàm dõng dạc lên chiêng đầu tiên cầm nhịp. Ngay sáng hôm ấy, quân trẩy rầm rộ qua các cửa thành. Quân ta nhổ đi giữa các cõi. Người tiễn quân như hội chợ. Từng xe cơm nén mo cau đưa đến cho người đi ăn đường. Mỗi người, tay lại cầm khẩu trầu mời. Đống nhất, các đạo quân lęn đường đi trấn cői xa. ả Lên Chân xuống miền bể Ninh Hải. ạng Đô Lương trở về Cửu Chân. Cửa Hợp Phố ngoài Ngũ Lĩnh, có quân ông Thuông Nhu, ả Thánh Thiên trở về. Lại có quân tướng Hác, người sông Cái, quân ông Cả Công miền Thanh Oai theo lên. Các làng đem dừa ra mời quân uống đi đường xa đỡ khát nước. Những quả dưa hấu lňng đỏ xạn cát mát ngọt như đường. Người Lý, người Đồng, người Dao ở hồ Động Đěnh, người Cật, người Linh, người Miêu ở Tam Miêu cũng xuống hội quân với các tướng ông, tướng ả đi giữa cửa bể Hợp Phố. Người đi, người tiễn. Những đạo quân trẩy giữa cả ngŕn người từ bóng các dãy cây xoan, cây đề lá xanh đậm xanh nhạt trong cổng thŕnh ra. Người đi nửa ngŕy chưa qua hết. Tiếng hò hát, tiếng cồng, tiếng trống đồng vang khắp đồng băi ra suốt mặt sông.
* * *
Trên khoảng đồi trông ra sông Cái. Những tàu lá cọ xòe như chiếc tán. Lá cọ đựng nắng, bóng mát xanh đọng thŕnh vũng. Dưới kia, mặt nước cuồn cuộn phù sa đỏ rực. Hai bên quang cảnh mênh mang làng mạc trù phú. Đồi chè, đồi sơn như những bát úp xanh mượt.
Rừng cọ liền rừng mía suốt một dải. Những cánh nương đương vŕo đňng trải màu xanh thẫm lẫn với chân ruộng lúa nước khuất trong rộc. Bãi ngô, bãi khoai lang quanh từng nếp nhà sàn lửng, làng xóm quây quần chi chít. Trẻ con chơi nhởi, một đám đương bẫy chim cuốc đem thui dưới rặng vải, rặng nhãn tròn tán như những cái nấm lùn. Mùi hoa cau thơm ngào ngạt. Cả rừng cau lủa tủa, thân thẳng vút lên như đan phên. Người trẩy hội tiễn quân ở Mi Linh đương tản về các ngả. Một ông lão, nhác trông vẻ đã quá già, cánh tay trần nhăn nheo xù xì như vỏ gốc gạo. Nhưng không thể đoán được tuổi thọ của cố. ạng lăo vẫn mạnh mẽ, vững chãi. ạng lão đi một mình. Không phải con cháu người theo người dắt, như mọi cố tuổi cao nhường ấy đã đuối sức. ạng lão đầu trọc, quần xắn móng lợn, chân đất. Tấm áo năm thân buộc dải, rộng ống -vải nâu vỏ dŕ lẫn màu đỏ son đường đồi. ạng lăo chống gậy thong thả bước. Đến một tảng đá. ạng lăo dựng chiếc gậy lên, ngồi nghỉ. Bờ tre gió dạt dào, ngả nghiêng. Dưới bến, mấy chiếc nan sang ngang trôi ve vé như những chiếc lá tre đuổi nhau. Tiếng hát vời vợi sang sông theo con đň.
Khăn vuông ai đội Khăn điều ai vắt vai Ai đi nhớ Về thương Ai thương ai nhớ Ai về ai nhớ ai thương
Lối bến vào qua dưới những vòm tre hun hút mát rượi. Bóng tre lăn tăn xanh. Trai gái Mi Linh dưới đň lên còn đương ríu rít những chuyện đęm hội roi lúc gà gáy quân trẩy. Tiếng hát vương theo người vào mãi những con đường đất đỏ trong đồi khuất xa. Một người to lớn, lực lưỡng, đội chiếc nón bứa, quần buông lá tọa, đầu quấn vểnh lằn khăn chŕm tai chó, bước chen trong đám. Người ấy quẩy một gánh củi. Đầu bó củi đằng trước giắt chiếc rěu to. Đám người dưới bến vẫn rập rěu lên. Lại rộn ràng đám khác đi tới rồi đi qua. Người quảy củi đứng lại. Có lúc nhěn đăm đăm. Như trông thấy được tiếng hát cô Tŕm ngày xưa đương theo đám trai gái cůng về. Người quảy củi khe khẽ thở dài -như buông cái mệt nhọc lên dốc ra, rồi đặt gánh củi cạnh tảng đá ông lăo vừa ngồi. Người quảy củi vái chào rồi sôi nổi kể với ông lão:
-Suốt đęm xem đấu roi! Tuyệt trần! Tuyệt trần. Nghĩ người ta cũng nực cười. Lúc chưa đi đâu thě chỉ biết có mình giỏi. Kịp khi học được mấy miếng võ hiểm của cố ạng Trọng, mới vỡ ra ngoài lò có người hơn mình. Đến lúc ra thiên hạ, thấy trong thiên hạ người tài không đếm xuể được. Xem các tướng ông, tướng ả đấu roi, cứ vừa xem vừa nhớ lại, lại cười thầm mình như thế. ạng lão gật đầu ra vẻ chịu chuyện. Bỗng người quảy củi hỏi một câu dường như chẳng ăn nhập gě vào những chuyện đương nói:
-Vua chủ có còn nhớ cái khi vua tôi bàn mưu giết Đồ Thư ở Núi Trâu. Tốn thêm một con trâu mà phải tính lại mãi. Cũng mê mải suốt đêm đấy. ạng lão chậm rãi nói:
-Đến cái tuổi lăo, mà lão cũng quên rồi. Còn nhớ gì nữa đâu! Rồi ông lão im lặng. Một lúc, như chợt nghĩ thấy, lại nói:
-Miếng roi các tướng ra quân đęm qua, chư ông nói phải, giỏi quá. Các tay nỏ bắn đôi cũng tŕi hơn ngày trước nhiều. Người quảy củi chưa thấy ông lão bắt lời câu mình hỏi lúc nãy, lại sẽ sàng nói:
-Còn nhớ đã cùng cố ạng Trọng xem đất Kẻ Nhồi, Kẻ Vang.
-Lão không nhớ thế nào! Người quảy củi nói:
-Trên đồi đá ong, cố ạng Trọng dặn ta việc xây thành, giữ thành... ạng lão lắc đầu:
-Lão không phải Thục Phán đâu. Người quảy củi nhìn ông lão:
-Vua chủ có còn nhớ Cao Lỗ không? ạng lão tần ngần rồi gật đầu:
-Cũng may, lão vẫn còn nhớ chuyện ông Cao Lỗ xây thành. Nhưng mà cứ gì lão, đâu trong thiên hạ, ai chẳng thuộc chuyện Cao Lỗ xây thành Loa.
-Vua chủ còn nhớ tôi không?
-Vậy ông là ai?
-Tôi là Cao Lỗ đây. ạng lão im lặng. Rồi nhìn mênh mông ra vùng đồi đất đỏ trước mặt.
-Cao Lỗ! Cao Lỗ! ạng là Cao Lỗ ư? Có nhẽ lão chưa được biết bao giờ. Hay lŕ lão đã gặp ông mà lão không biết. ừ, ngày trước vua chủ đã qua lại bao lần đất Kẻ Nhồi, Kẻ Vang, thế mà phải đến khi cố ạng Trọng bảo cho mới nhìn ra được nơi thế hiểm. Thôi thôi, dễ có khi đă gặp nhau mà không biết cũng nên. Rồi lặng im. Người quày củi nhấc gánh, cúi chào ông lão, rồi cười ha hả, lại rong ruổi đi.
1982

Không có nhận xét nào: