Là một đại danh thần thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).
Là một đại danh thần thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).Thân thế và sự nghiệpÔng tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đồng Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân (1800)[1], quê làng Đường Long (Chí Long) Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.
Ông xuất thân trong một gia đình làm ruộng và nghề thợ mộc. Nhà nghèo lại không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên công nghiệp lớn.Năm Quý Mùi 1823, vua Minh Mạng đề bạt ông hàm Điển bộ (Bí thư ở Nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi Thừa chỉ ở Nội các, hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ, năm 1831 thăng Hồng Lô tự khanh.Năm 1832, ông được sung vào phái bộ sang Trung Quốc về việc thương mại. Năm 1835 ông nhận lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng bình định các vùng mới khai hoang. Việc thành công ông được thăng hàm Thị lang.
Năm 1837, ông bị triều thần dèm pha do ông mạnh dạn chống lại những hành động xấu xa của các viên đại thần nên bị giáng xuống làm thơ lại ở bộ Lại. Cuối năm, ông được khôi phục hàm Chủ sự, sung chức Lang trung. Năm sau thăng Thị lang bộ Lễ, năm 1839 thăng hàm Tham tri, làm việc trong Nội các.
Năm Canh Tý 1840, ông được bổ làm Tuần phủ Nam Nghĩa, trông coi bố phòng cửa biển Đà Nẵng. Công việc hoàn thành tốt đẹp, ông được triệu về kinh thăng Tham tri bộ Công, được vua Thiệu Trị cử làm Tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên). Tại đây, ông dẹp tan được các toán giặc cướp nước ngoài vào quấy phá. Sau, ông được cải bổ Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long, Định Tường) kiêm Khâm sai quân thứ đại thần, hàm Tòng Hiệp Biện Đại học sĩ rồi được thưởng danh hiệu "An Tây trí dũng tướng".
Năm 1845, ông cùng với Doãn Uẩn đánh bại quân Xiêm La, bình định Cao Miên, ổn định hoàn toàn vùng biên giới Tây nam (miền Tây Nam bộ).
Tháng 5 năm 1847, ông được triệu về kinh, thăng hàm Chánh Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Công, tước Tráng Liệt tử và được ban một Ngọc bài có khắc bốn chữ "Quân kỳ thạc phụ", được chép công trạng vào bia đá ở Tòa Võ miếu Huế. Sau khi vua Thiệu Trị mất, ông được đình thần tôn làm Phụ chính Đại thần.
Đại đồn Kỳ Hòa, tức Chí HòaNăm Mậu Thân 1848, vua Tự Đức phong tước cho ông là Tráng Liệt bá. Cùng năm đó, thân phụ ông qua đời. Ông xin về cư tang, nhưng vì đang làm Phụ chính nên chỉ được nghỉ một thời gian ngắn phải ra làm việc tại triều đình.
Năm Canh Tuất 1850, vua Tự Đức chuẩn phê cải tên ông là Nguyễn Tri Phương[2]. Từ đó tên Nguyễn Tri Phương trở thành tên chính của ông. Sau đó ông được sung chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần kiêm Tổng đốc các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm 1853, ông được thăng Điện hàm Đông các Đại học sĩ, rồi lãnh chức Kinh lược sứ Nam Kỳ. Trong thời gian này, ông có công lập được nhiều đồn điền, khai khẩn đất hoang, dân cư ở địa phương được an cư lập nghiệp.
Đánh dẹp giặc cướp trên đất BắcNăm Tự Đức thứ 25 (1870), giặc Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc vẫn đánh phá cướp bóc các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Trong 3 năm trường chúng vẫn uy hiếp các tỉnh này mà quan quân bị đánh thua luôn.Sau khi quan Tổng đốc Phạm Chi Hương bại trận và bị bắt, triều đình đã phái Võ Trọng Bình ra làm Tổng đốc Hà Ninh kiêm Khâm sai Quân thứ đại thần Tuyên-Thái-Lạng. Quan Khâm sai hội với quan Đề đốc Quảng Tây để cùng đánh giặc Ngô Côn vì bọn này quấy phá cả hai bên biên thùy. Vào giữa năm 1869, Ngô Côn đem quân đánh Bắc Nịnh, quan Tiểu phủ Ông Ích Khiêm đánh thắng một trận lớn, phá tan quân giặc và Ngô Côn bị bắn chết.
Ngô Côn chết rồi thì đồng đảng chia làm 3 phe tiếp tục cướp phá các tỉnh mạn ngược của Bắc Viêt: phe Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, phe Cờ Vàng của tướng Hoàng Sùng Anh, phe Cờ Trắng của bọn Bàn Văn Nhị và Lương Văn Lợi.
Quan Trung quân Đoàn Thọ được gửi từ Kinh ra làm Tổng thống quân vụ Bắc Kỳ. Ông liền kéo quân lên Lạng Sơn. Bọn giặc Khách là Tô Tứ thình lình nổi lên nửa đêm vào chiếm thành giết chết Đoàn Thọ. Võ Trọng Bình may chạy thoát được. Triều đình lại sai Hoàng Kế Viêm ra làm Thống đốc quân vụ Lạng-Bình-Ninh-Thái cùng với Tán tương Tôn Thất Thuyết tìm cách dẹp giặc cho yên. Tiếp theo vua lại sai ông Lê Tuấn là Thượng thơ Hình bộ ra làm Khâm sai thị sự để giúp Hoàng Kế Viêm. Rồi Hoàng Kế Viêm giữ mạn Sơn Tây, Lê Tuấn trấn đóng ở Hải Dương. Tuy vậy tình hình vẫn lằng nhằng không giải quyết thanh thỏa được.Vua Tự Đức quá lo lắng không biết làm sao, lại phải vời Nguyễn Tri Phương vào điện mà dụ rằng:
"Khanh vốn sẵn có uy vọng, ai ai cũng biết, khanh cứ ngồi một chỗ mà trù tính mọi việc ở xa, khiến các tướng phấn khởi, bất tất khanh phải đem thân ra chốn chiến trường. Hiện giờ bầy tôi kỳ cựu ở Triều duy còn một mình khanh, mà đình thần thường cứ xin cử khanh đi dẹp giặc ở miền Bắc, Trẫm vẫn không mãi mãi phiền khanh về đường quân-vụ... Nhưng hiện giờ ở chốn biên khổn giặc giã quấy rối đã lâu rồi, Trẫm rất lấy làm lo ngại, mà khanh cũng có lòng muốn đền báo ơn vua nợ nước, thành thử Trẫm buộc lòng phải ủy khanh đi một lần nữa mới xong mọi việc."[cần chú thích]Vua liền chuẩn sung ông làm chức Tam tuyên quân thứ Khâm mạng Đại thần. Ông được phép tùy nghi lo việc đánh dẹp cho yên. Vua ban cho ông kỳ bài, ấn kiếm, cờ mao tiết, nhung y v.v.Vừa đi thì ông đã trù hoạch các mưu kế. Lúc ra đến nơi quân binh được lệnh đi đốn củi, cắt bổi khô, cỏ khô... đem chất chứa quanh các gốc cây gần các đồn giặc. Gặp một đêm có gió lớn thổi theo chiều thuận lợi, ông đốc thúc các đoàn quân đều mang gươm dáo súng ống, nhưng đặc biệt là phải mang theo rất nhiều những chất dẫn hỏa như diêm tiêu, lưu hoàng, thuốc súng. Các cánh quân lẳng lặng bố trí quanh đồn trại giặc, đặt lửa trên gió đốt các đống củi khô. Càng đốt cháy, gió càng thổi mạnh lửa càng lan tràn khắp nơi. Quân ẩn núp bao quanh bắn xả vào giặc. Quân giặc đang ngủ mê nghe lửa mới vùng dậy bỏ chạy tán loạn nên phần bị chết cháy, phần bị bắn, phần bị bắt. Số ít thoát được phải chạy trốn thật xa vào rừng sâu mới thoát thân.Tiếp theo ông còn ra lệnh cho dân các vùng quanh đó không được liên lạc, lui tới mua bán tiếp tế cho giặc. Thế là giặc lại bị tuyệt lương sau khi bị hỏa công đốt.Trong một tháng các tướng giặc vô kế khả thi đều kéo đến trước cửa dinh xin đầu hàng. Cầm đầu bọn này là Lưu Vĩnh Phúc và Phó tướng là Bạch Quế Hương.
Bọn Lưu, Bạch đồng trình với cụ: "Chúng tôi đã trải qua trăm trận, chưa có lần nào bị thua to như vầy. Chúng tôi thấy tướng công trí dũng hơn người, thật tình tâm phục. Nếu tướng công rộng lòng thâu dụng, chúng tôi xin xả thân phục vụ giúp triều đình trong khi hữu sự."Ông dâng sớ xin thâu dùng, vì biết rõ bọn Lưu có tài và quân lính cũng dũng cảm. Vua Tự Đức bằng lòng và ban cho Lưu Vĩnh Phúc chức Đề đốc với nhiệm vụ tuần phòng ở biên cảnh. Từ đó triều đình chẳng những bớt cái họa Cờ Đen, mà Cờ Đen còn giúp chống đánh bọn Cờ Vàng, Cờ Trắng và sau này còn giúp đánh Pháp.
Năm Tự Đức thứ 24 (1871) vua xuống dụ chuẩn cho ông khôi phục nguyên hàm Thái tử Thái bảo Võ hiển điện Đại học sĩ Trí dõng tướng Tráng liệt bá, nhưng vẫn sung Tam tuyên quân thứ Khâm mạng Đại thần.
Mùa đông năm 1872, vua nhân nhớ ông đang ở ngoài Bắc là xứ lạnh lẽo, nên gởi ban cho ông một cái áo ấm vừa dụ rằng: "Áo này là áo ngự dùng mặc mùa lạnh, nay ban cho khanh để tỏ là người có công đức và tăng thêm cho khanh vẻ quân dung."Thống lĩnh quân sự chống PhápQuân Pháp tấn công thành Gia ĐịnhNăm Mậu Ngọ 1858, tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, vua Tự Đức cử ông làm Quân thứ Tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân, Pháp đã uy hiếp và phá hủy một số lớn đồn lũy của Việt Nam, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Tuy nhiên, do công cuộc kế hoạch phòng thủ của Nguyễn Tri Phương chu đáo nên quân Pháp không thể tiến lên được.
Quân Pháp tấn công thành Hà NộiNăm 1859, Pháp chuyển hướng đánh thành Gia Định. Thành bị hạ, Hộ đốc thành Gia Định là Võ Duy Ninh tự vẫn. Sau đó, Pháp đã cho phá hủy thành Gia Định[4]. Năm 1860, Nguyễn Tri Phương được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam. Do không nắm vững tình hình quân sự và chính trị của Pháp, Nguyễn Tri Phương đã chủ trương xây dựng đại đồn Chí Hòa[5] để bao vây, bức rút quân Pháp. Tuy nhiên, sau vào ngày 25 tháng 10 năm 1861, quân Pháp đã tiến hành công phá đại đồn. Ông chỉ huy quân lính chống cự quyết liệt nhưng rồi bị thương, đại đồn thất thủ, Gia Định lại bị chiếm. Em ruột ông là Nguyễn Duy tử trận, ông bị cách chức xuống làm Tham tri, mãi đến năm sau lại được được hàm Binh bộ Thượng thư, sung Đổng nhung quân vụ Biên Hòa, tập hợp lực lượng để chống sự bành trướng của quân Pháp.
Năm 1862, sau khi triều đình Huế ký hàng ước, mất Nam Kỳ lục tỉnh vào tay Pháp, ông được cử ra Bắc làm Tổng thống Hải An quân vụ, thăng chức Võ Hiển Đại học sĩ, tước Tráng Liệt Bá. Năm Nhâm Thân 1872, lại được điều về giữ chức Tuyên sát đổng sức đại thần, thay mặt triều đình xem xét việc quân sự ở Bắc Kỳ.
Năm 1873, Soái phủ Nam Kỳ phái Francis Garnier đem quân ra uy hiếp ở Hà Nội. Ngày 19 tháng 11 năm 1873, Garnier đánh úp thành Hà Nội. Con trai Nguyễn Tri Phương là Phò mã Nguyễn Lâm bị trúng đạn chết tại trận, Nguyễn Tri Phương cũng bị trọng thương. Ông được lính Pháp cứu chữa, nhưng ông khảng khái từ chối và nói rằng: "Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa". Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20 tháng 12 năm 1873 (1 tháng 11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự Đức tự soạn bài văn tế khóc các vị công thần và cho lập đền thờ ông tại quê nhà.
Đánh giá, nhận xétNăm Tự Đức thứ 24 (1871) vua xuống dụ: "Nguyễn Tri Phương tuổi tác tuy già mà tấm lòng giúp trí chống giặc không già, ấy là trời đã đem Nguyễn Khanh mà cho ta đó."Khen thưởngNăm Canh Tý 1840, Khâm sai quân thứ đại thần, hàm Tòng Hiệp Biện Đại học sĩ rồi được thưởng danh hiệu "An Tây trí dũng tướng".Tháng 5 năm 1847, thăng hàm Chánh Hiệp biện đại học sĩ, tước Tráng Liệt tử và được ban một Ngọc bài có khắc bốn chữ "Quân kỳ thạc phụ", được chép công trạng vào bia đá ở Tòa Võ miếu Huế.Năm Canh Tuất 1850, vua Tự Đức ban tên Nguyễn Tri Phương, chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần kiêm Tổng đốc các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên.Năm 1853, thăng Điện hàm Đông các Đại học sĩ.Năm 1862, thăng chức Võ Hiển Đại học sĩ, tước Tráng Liệt Bá.Hàm Thái tử Thái bảo Võ hiển điện Đại học sĩ Trí dõng tướng Tráng liệt bá (1871).
Thứ Ba, 25 tháng 12, 2007
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét