Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2007

Lịch sử Việt Nam Chương 2 (tt)

VIIỊ Thời Lý (544 - 602)

- Lý Nam Đế 544 - 549
- Triệu Việt Vương 549 - 571
- Hậu Lý Nam Đế 571 - 602

Năm 541 Lý Bôn khởi nghĩa đánh đuổi quân Tàu, chiếm được Long Biên, thứ sử Tiêu Tư phải chạy trốn về Tàu.

Năm 544, Lý Bôn lên ngôi vua, lấy hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.

Nhà Lương bên Tàu sai Trần Bá Tiên sang gây chiến, Lý Nam Đế phải lui về Khuất Lyêu (Hưng Hoá) và trao quyền cho Triệu Quang Phục. Thấy thế giặc mạnh, Triệu Quang Phục bèn lập căn cứ ở đầm Dạ Trạch (phủ Khoái Châu tỉnh Vĩnh Yên) và dùng lối đánh du kých khiến quân Tàu phải thất trận, rồi chiếm lại kýnh độ Lúc đó Lý Nam Đế bị bịnh mất, Triệu Quang Phục lên ngôi, xưng là Triệu Việt Vương, năm 549. Tới năm 571 Lý Phật Tử cướp ngôi của Triệu Việt Vương, rồi xưng là Hậu Lý Nam Đế.

Năm 602, quân Tàu lại kéo sang đánh phá, Lý Phật Tử thế yếu phải hàng giặc.

IX. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (603-939) (Lần thứ ba)

Thời kỳ này các quan lại Tàu rất khắc nghiệt. Năm 679, nhà Đường của Tàu thiết lập An Nam Đô Hộ Phủ ở Giao Châu, để gia tăng bóc lột hà hiếp dân chúng. Khắp nơi trong nước, dân chúng nổi lên chống bọn đô hô..

Ạ Mai Hắc Đế khởi nghĩa ở Châu Hoan (Nghệ An) (722)

Mai Thúc Loan khởi binh đánh Tàu, chiếm lại vùng châu Hoan (Nghệ An) năm 722, rồi xưng Hoàng Đế, người đời thường gọi ông là Mai Hắc Đế. Ông liên kết vây cánh với Lâm Ấp và Chân Lạp, nhưng việc chuẩn bị chưa xong thì ông bị bại trận, rồi mắc bệnh mà mất.

B. Cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương (791)

Năm 791 Phùng Hưng khởi nghĩa chiếm được phủ đô hộ rồi sửa sang việc cai trị, được mấy tháng thì mất. Dân chúng lập đền thờ tôn ông là Bố Cái Đại Vương.

Con Phùng Hưng lên cầm quyền nhưng thế yếu phải ra hàng quân Tàu (lúc đó là nhà Đường của Trung Hoa).

C. Họ Khúc dấy nghiệp (906 - 923)

Vào cuối đời Đường, nước Tàu rất loạn lạc, thừa cơ ấy dân Việt khởi nghĩa khắp nơi, Tiết độ sứ thất bại phải chạy về Tàụ Năm 906 dân chúng tôn Khúc Thừa Dụ người Hồng Châu (Hải Dương) lên làm tiết độ sứ.Nhà Đưòng vì suy yếu phải thuận phong cho Khúc Thừa Du.. Cai trị được một năm thì ông mất, con là Khúc Hạo lên thaỵ Sửa sang lại việc cai trị như một nước tự chủ. Năm 917 Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp. Năm 923, quân Tàu Nam Hán sang đánh chiếm Giao Châu, rồi sai Lý Tiến làm thứ sử.

X. Thời Ngô (939 - 965)

- Tiền Ngô Vương 939 - 944
- Dương Tam Kha 945 - 950
- Hậu Ngô Vương 950 - 965
- Loạn 12 Sứ Quân 945 - 967

Năm 931, tướng cũ của họ Khúc là Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, rồi tự xưng làm tiết độ sứ. Cai trị được 6 năm thì bị bộ tướng là Kiều Công Tiện ám sát để cướp quyền.

Con rể của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền mang quân từ châu Ái (Thanh Hoá) ra báo thù. Kiều Công Tiện bị thua bèn cầu cứu Nam Hán. Ngô Quyền giết Tiện rồi tiến binh phá tan quân Nam Hán trong trận sông Bạch Đằng, chấm dứt thời kỳ bị Tàu đô hộ, lập lại nền độc lập cho nước Việt.

Năm 939 Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (Phúc Yên). Vua Ngô Quyền sửa sang việc cai trị, tổ chức chế độ quân chủ và thiết lập nền độc lập vững bền, nhưng mới trị vì được 5 năm thì mất. Con là Ngô Xương Ngập lên ngôi, nhưng lại bị cậu là Dương Tam Kha (em vợ của Ngô Quyền) cướp ngôi (945). Em Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Văn diệt Dương Tam Kha (950) rồi hai anh em cùng làm vua, xưng là Hậu Ngô Vương. Đến năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn bị chết trận tại Thái Bình. Thế lực vua Ngô càng ngày càng suy yếu, thổ hào các nơi nổi lên tranh cướp quyền hành, chia nước thành 12 vùng cai trị riêng biệt, thủ lãnh mỗi vùng xưng là sứ quân. Thời này của nước Việt gọi là "Loạn 12 Sứ Quân".

Loạn bắt đầu năm 945, mãi tới năm 967, Đinh Bộ Lĩnh mớI chấm dứt được.

XỊ Thời Đinh (968 - 980)

- Đinh Tiên Hoàng 968 - 979
- Đinh Tuệ 979 - 980

Đinh Bộ Lĩnh là một vị tướng tài ba, dẹp tan loạn 12 Sứ Quân năm 968, lập nên triều đại nhà Đinh.

Đinh Bộ Lĩnh người ở Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình), con của Đinh Công Trứ làm thứ sử châu Hoan dưới thời nhà Ngộ Ngay khi còn bé đã tỏ ra có mưu trí hơn người, lớn lên theo giúp và làm con nuôi sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh đem quân về Hoa Lư để rèn luyện. Khi cử binh đánh các sứ quân, trận nào cũng thắng nên được tôn là Vạn Thắng Vương. Chỉ trong vòng một năm, dẹp tan loạn 12 sứ quân.

Năm 968 Vạn Thắng Vương lên ngôi, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đổi tên nước là Đại Cồ Việt, lập đô ở Hoa Lự Đinh Tiên Hoàng sửa sang việc nước, thiết lập triều quy, tổ chức quân đội, đặt hình luật rất nghiêm khắc.

Vì muốn yên mặt bắc, vả lại thế lực nhà Tống bên Tàu đang mạnh, Đinh Tiên Hoàng cho con sang triều cống nhà Tống để giữ tình hoà hảọ Năm 972 Tống vương phong Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.

Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm thì bị tên cận vệ Đỗ Thích ám sát năm 979. Con nhỏ là Đinh Tuệ được lập làm vua, nhưng chỉ được một năm thì bị truất ngôi.

XIỊ Thời Lê (980 - 1009) (Tiền Lê)

- Lê Đại Hành 980 - 1005
- Lê Trung Tông 1005
- Lê Long Đĩnh 1005 - 1009

Cuối đời Đinh Tiên Hoàng, nhà vua chỉ ham mê tửu sắc, rồi bị ám sát cùng với thái tử Đinh Lyễn năm 979. Đinh Tuệ mới 6 tuổi được lập làm vua, nhưng quyền hành về cả tay Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn.

Năm 980, nhà Tống của Tàu lấy cớ đó mang quân sang đánh nước Việt. Lê Hoàn được triều thần tôn lên làm vua để lo việc chống ngoại xâm. Quân Tàu kéo sang theo đường Lạng Sơn và sông Bạch Đằng. Nhưng mới chỉ tới Chi Lăng thì bộ binh của Tàu bị vua Lê Đại Hành đánh tan, thuỷ quân Tàu thấy vậy hoảng sợ phải rút luị Vua Tống thấy đánh không được phải tôn phong vua Lê Đại Hành là Giao Chỉ Quận Vương để giữ tình hoà hảo (993). Vua Đại Hành lại đánh phá quân Chiêm ở phía nam, khiến nước này phải thần phục năm 982.

Vua Đại Hành mất năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua, thái tử Long Việt lên ngôi, nhưng mới được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người ám sát để cướp ngôi. Long Đĩnh lên ngôi năm 1005, là người rất hung ác, đam mê tửu sắc và bệnh hoạn. Khi ngự triều phải nằm. Người trong nước gọi ông là Lê Ngoạ Triềụ Long Đĩnh chết năm 1009.

XIIỊ Thời Lý (1009 - 1225) (Hậu Lý)

- Lý Thái Tổ 1010 1028
- Lý Thái Tông 1028 1054
- Lý Thánh Tông 1054 1072
- Lý Nhân Tông 1072 1127
- Lý Thần Tông 1128 1138
- Lý Anh Tông 1138 1175
- Lý Cao Tông 1176 1210
- Lý Huệ Tông 1211 1225
- Lý Chiêu Hoàng 1225

Lê Long Đĩnh chết, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi, ông xưng là Lý Thái Tổ, rời kýnh đô về thành Đại La, nay là Hà Nộị Tục truyền rằng khi Lý Thái Tổ vào thành Đại La thì thấy rồng vàng bay lên đón rước do đó mà đổi tên là thành Thăng Long.

Lý Thái Tổ rất sùng đạo Phật nên cho xây chùa khắp nơi và truyền bá rất nhiều kýnh Phật cho dân chúng.

Đến đời Lý Thánh Tông tên nước đổi là Đại Việt (1054). Năm 1069, Lý Thánh Tông mở mang bờ cõi về phía nam. Đem quân đánh Chiêm Thành, bắt vua Chiêm là Chế Củ mang về Thăng Long. Chế Củ phải dâng đất để chuộc mạng, gồm các châu Địa lý, Ma Lynh và Bố Chính (nay là Quảng Bình, Quảng Trị).

Năm 1075, Lý Nhân Tông cử Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn quân chia thành hai đạo thuỷ bộ đánh chiếm 3 châu Khâm, Lyêm và Ung của Tàu (lúc đó nhà Tống đang cai trị nước Tàu).

Thời Lý kéo dài hơn 200 năm, truyền được 9 đời vua. Vị cuối cùng là một nữ vương, lên ngôi mới 7 tuổi, xưng là Lý Chiêu Hoàng. Vì Lý Chiêu Hoàng còn nhỏ tuổi nên quyền hành đều ở trong tay Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Đô.. Trần Thủ Độ lập mưu để Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng năm 1225.

XIV. Thời Trần (1225 - 1400)

- Trần thái tông 1225 1258
- Trần thánh tông 1258 1278
- Trần Nhân Tông 1278 1293
- Trần Anh Tông 1293 1314
- Trần Minh Tông 1314 1329
- Trần Hiến Tông 1329 1341
- Trần Dụ Tông 1341 1369
- Trần Nghệ Tông 1370 1372
- Trần Duệ Tông 1372 1377
- Trần Phế Đế 1377 1388
- Trần Thuận Tông 1388 1398
- Trần Thiếu Đế 1398 1400

Trần Cảnh lên ngôi vua, xưng là Trần Thái Tông, nhưng mọi quyền hành đều nằm trong tay Thái sư Trần Thủ Đô..

Thời Trần nho học rất thi.nh. Ỏ kýnh đô, ngoài Quốc Tử Giám đã có từ thời Lý, triều đình cho lập thêm Quốc Học viện để giảng tứ thư, ngũ kýnh. Nước chia thành 12 Bộ, tại mỗi bộ đều có trường dạy học.

Văn học thời Trần rất thi.nh. Đời này có nhiều nhân tài như Lê Văn Hưu đã soạn bộ Đại Việt Sử Kí rất có giá trị; Mạc Đĩnh Chi, nhà văn học lỗi lạc, nổi tiếng trong việc ngoại giao với nhà Nguyên của Tàu; Chu An, nhà văn học tài ba nêu gương thanh khiết và cương trực; Nguyễn Thuyên có công xây dựng nền tảng cho văn Nôm.

Trần Quốc Tuấn soạn "Hịch Tướng Sĩ" được đời truyền tu.ng. Các vua nhà Trần đều có soạn Ngự Tập.

Võ công thời Trần rất hiển hách, đã tạo được một võ nghiệp oanh liệt trong lịch sử thế giới, là đánh bại đoàn quân bách thắng Mông Cổ. Lúc đó Mông Cổ đã toàn thắng khắp nơi từ Trung Á tới Đông Âu và chiếm trọn nước Tàu ở phía bắc nước Việt. Thế mà ba lần Mông Cổ sang xâm lấn nước Việt đều bị thất bại (năm 1257, năm 1284, năm 1287). Chiến thắng đại quân Mông Cổ, Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xứng đáng là vị tướng tài ba bậc nhất cổ kim.

Đời Trần Anh Tông mở mang bờ cõi về phía nam. Nhà vua gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân. Hôn lễ của vua Chiêm là châu Ô và châu Rị Năm 1307, vùng này được đổi thành châu Thuận và châu Hoá (nay là vùng Thừa Thiên).

Cuối thời Trần, các vua trở nên kém cỏi, triều đình suy yếu, dân nước đói khổ, quyền hành đều nằm cả trong tay Hồ Quý Lỵ

XV. Thời Hồ (1400 - 1407)

- Hồ Quý Ly 1400

- Hồ Hán Thương 1401- 1407

Các vua cuối nhà Trần trí kém, tài hèn nên Hồ Quý Ly nắm trọn quyền hành. Đến năm 1400 Hồ Quý Ly truất phế Trần Thiếu Đế rồi xưng làm vua, đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hoá), đổi tên nước là Đại Ngụ

Hồ Quý Ly cải tổ mọi việc trong nước, lập thuế thuyền buôn, chế tiền giấy thay tiền đồng để tiện lưu dụng, dịch sách chữ Nho sang chữ Nôm; dùng chữ Nôm trong việc giáo dục cùng trong các văn kýện hành chánh. Tổ chức binh bị rất chu đáo, lập sổ dân và tuyển thêm quân, định binh chế, đóng chiến thuyền, xây thành luỹ, lập kho lương và xưởng chế tạo vũ khí.

Năm 1402 đánh Chiêm Thành mở rộng bờ cõi phía nam, Chiêm Thành thất trận, phải dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam) và Cổ Luỹ (Quảng Ngãi).

Năm 1406 nhà Minh bên Tàu lấy cớ giúp nhà Trần sai Trương Phụ và Mộc Thạch đem đại quân sang đánh nước Việt. Quân sĩ nhà Hồ yếu hèn, lực lượng quốc gia suy kém, dân chúng bị đói khổ vì những năm suy vi cuối thời Trần, nên quân Minh đã thắng dễ dàng. Hồ Quý Ly và con cháu chạy vào tới Hà Tĩnh thì bị quân Minh bắt, rồi giải sang Tàụ Về sau, nhà Minh khai thác tài trí con cháu nhà Hồ để phát triển nền văn minh Trung Hoa.

XVỊ Hậu Trần Kháng Chiến Chống Tàu (1407 - 1413) (Hậu Trần)

- Giản Định Đế 1407 - 1409

- Vua Trùng Quang 1409 - 1413

Sau khi dứt nhà Hồ, quân Tàu chiếm nước Việt, thiết lập việc cai tri..

Con cháu nhà Trần phải chịu lao khổ kháng chiến chống quân Minh. Hoàng Đế Giản Định (Trần Quỹ), vua Trùng Quang (Trần Quý Khoách) gặp nhiều gian nan. Cuối cùng, thế yếu tất cả đều bị thất bạị

XVIỊ Thời kỳ bị Tàu (nhà Minh) đô hộ (1414 - 1427)

Ạ Việc Tàu đô hộ

Thắng được nhà Hồ và con cháu nhà Trần, quân Minh thiết lập việc đô hộ rất tàn bạo, bóc lột dân Việt đến cùng cực: tiêu huỷ sách vở, tận thu tài liệu văn hoá Việt mang về Tàu để mạo thành tài liệu của Tàu, bắt dân Việt học chữ Hán, đầy đoạ dân chúng trong cảnh khốn cực, lầm than.

B. Lê Lợi Đánh Tàu Phục Quốc (1418 1427)

Năm 1418 Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, khởi nghĩa đánh Tàu ở Lam Sơn (Thanh Hoá). Lúc đầu, thế còn yếu, Lê Lợi phải rút quân về núi Chí Lynh ba lần để thế thủ và rèn luyện quân sĩ.

Tới năm 1424, theo sách lược của Nguyễn Trãi, Bình Định Vương đánh thắng quân Minh liên tiếp, chiếm lại các đất từ Thanh Hoá vào nam.

Năm 1426 Bình Định Vương tiến quân ra bắc, đánh tan đại quân của Vương Thông tại Tuỵ Động, chém chết Liễu Thăng ở Chi Lăng, giành lại độc lập cho người Việt năm 1427.

XVIIỊ Thời Lê (Hậu Lê) (1428 - 1527)

- Lê Thái Tổ 1428 - 1433
-Lê Thái Tông 1433 - 1442
- Lê Nhân Tông 1442 - 1459
- Lê thánh Tông 1460 - 1497
- Lê Hiến Tông 1497 - 1504
- Lê túc Tông 1504
- Lê Uy Mục 1505 - 1509
- Lê Tương Dực 1509 - 1516
- Lê Chiêu Tông 1516 - 1524
- Lê Cung Hoàng 1524-1527

Sau khi đuổi xong giặc Tàu, Bình Định Vương lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Thái Tổ, đóng đô ở Thăng Long, tên nước vẫn là Đại Việt.

Ỏ thời Lê, mọi việc trong nước đều được sửa sang. Việc cai trị sắp đặt tốt đẹp, luật pháp nghiêm minh. Bộ luật Hồng Đức là bộ luật rất hoàn bị đã được ban hành dưới triều Lê Thánh Tông (1460 1497)

Việc học được khuyến khích. Triều đình đặt lệ khắc tên những người đỗ tiến sĩ vào bia đá và được vinh quy bái tổ.

Thời này có nhiều tác phẩm danh tiếng còn truyền đến nay như: Đại Việt Sử Kí Toàn Thư của Ngô Sĩ Lyên, thơ văn của Nguyễn Trãi (Gia Huấn Ca, Bình Ngô Đại Cáo, v.v.).

Võ công và việc mở mang bờ cõi cũng rất lẫy lừng, Lê Thánh Tông đánh Chiêm Thành, lấy đất, lập thành đạo Quảng Nam (1471). Năm 1479 xứ Bồn Man (Trấn Ninh, nước Lào) liên kết với nước Lão Qua (nước Lào) nổi lên quấy phá, Lê Thánh Tông sai quân đánh dẹp, xứ Bồn Man xin quy thuận.

Vào cuối thời Lê, các vua sinh tật, ham mê tửu sắc, xa xỉ thái quá, khiến dân nước khổ sở, giặc giã nổi lên khắp nơị Quan triều thì giành nhau quyền lợi. Tướng Mạc Đăng Dung dẹp yên loạn ở triều rồi giết vua Lê Cung Hoàng (1527), soán đoạt ngôi vuạ

XIX. Thời Lê - Mạc tranh quyền (1527 - 1592)

- Thái Tổ Mạc Đăng Dung 1527 - 1529
- Thái Tông Mạc Đăng Doanh 1529 - 1540
- Hiến Tông Mạc Phúc Hải 1540 - 1546
- Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên 1546 - 1561
- Mạc Mậu Hợp 1561 - 1592

Mạc Đăng Dung giết vua Lê Cung Hoàng rồi soán ngôi, lập nên nhà Mạc. Mạc Đăng Dung lên ngôi xưng là Minh Đức, vẫn theo chính sách của các triều Lê mà trị nước.

Đến năm 1540, Mạc Đăng Dung hàng phục Tàu và nhận chức phong Đô Thống Sứ của nhà Minh. Đa số các quan triều không phục, người thì ẩn tránh, người thì nổi lên chống lại.

Con một cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim nổi lên, lập con cháu nhà Lê lên làm vua để chống nhà Mạc. Nguyễn Kim đánh chiếm được từ Thanh Hoá vào nam, chia đôi đất nước với nhà Mạc.

Năm 1545, Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm thế quyền. Trịnh Kiểm sợ con cái Nguyễn Kim không chịu bèn giết em vợ là Nguyễn Uông và bắt Nguyễn Hoàng vào trấn ở đất Thuận Hoá (1558). Trịnh Kiểm mất, Trịnh Tùng lên thay năm 1592. Trịnh Tùng đem quân đánh nhà Mạc ở bắc, giết được Mạc Mậu Hợp, chiếm kýnh thành, diệt xong nhà Mạc, hoàn thành việc trung hưng nhà Lê.

Ạ Các Vua Lê Trong Thời kỳ Lê Mạc Chiến Tranh (1533 - 1592)

- Lê Trang Tông 1533 - 1548
- Lê Trung Tông 1548 - 1556
- Lê Anh Tông 1556 - 1573
- Lê Thế Tông 1573 - 1599

B. Các Vua Lê trong Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh

- Lê Kính Tông 1560 - 1619
- Lê Thần Tông 1619 - 1643
- Lê Chân Tông 1643 - 1649
- Lê Thần Tông 1649 - 1662 (làm vua lần thứ hai)
- Lê Huyền Tông 1663 - 1671
- Lê Gia Tông 1672 - 1675
- Lê Hi Tông 1676 - 1705
- Lê Dụ Tông 1706 - 1729
- Lê Đế Duy Phương 1729 - 1732
- Lê Thuần Tông 1732 - 1735
- Lê Ý Tông 1735 - 1740
- Lê Hiển Tông 1740 - 1786
- Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) 1787 - 1788

XX. Thời Lê trung hưng (1592 - 1788)

Trong thời Lê Trung Hưng thì từ năm1627 tới 1672 là giai đoạn Nam Bắc phân tranh giữa họ Trịnh và Nguyễn, kéo dài 45 năm.

Trong thời Trung Hưng, vua Lê chỉ có hư vị, Trịnh Tùng xưng chúa, rồi cha truyền con nối, nắm hết quyền hành ở miền Bắc, gọi là Đàng Ngoàị Nguyễn Hoàng xưng chúa ở miền Nam, lập thành một khu vực tự trị, gọi là Đàng Trong. Chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều muốn tiêu diệt nhau để nắm trọn quyền hành, nên sinh thù nghịch và gây việc chiến tranh.

Năm 1627, chúa Trịnh lấy cớ chúa Nguyễn không chịu nộp thuế cho vua Lê nên sai quân vào đánh miền Nam, bắt đầu cuộc chiến tranh Nam Bắc.

Trong vòng 45 năm Trịnh, Nguyễn đánh nhau 7 lần không phân thắng bại nên hai bên phải giảng hoà, cắt nước làm đôi, lấy sông Gianh làm ranh giới hai miền Bắc, Nam.

Chính trị miền Bắc (Đàng Ngoài) chỉ quanh quẩn việc ngôi vị và cai trị địa phương cùng lăm le đánh chiếm miền Nam.

Miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn ngoài việc lo chống các chúa Trịnh ở Bắc, vẫn lo được việc mở mang bờ cõi. Lấy các đất của Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp để thành lập các tỉnh Bình Định năm 1558, Phú Yên năm 1611, Khánh Hoà năm 1653, Biên Hoà và Gia Định năm 1698, Hà Tiên năm 1708.

Nhưng ở miền Nam từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm 1765 thì sinh rối loạn do quyền thần Trương Thúc Loan, làm nhiều điều tàn ác, dân chúng oán giận.

Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ khởi nghĩa ở làng Tây Sơn (Bình Định), đánh chiếm Quy Nhơn rồi lấy luôn từ Quảng Ngãi vào Bình Thuận.

Chúa Trịnh thừa cơ miền Nam rối loạn bèn sai quân vào đánh lấy Phú Xuân (1775). Chúa Nguyễn bị thua, chạy vào
Quảng Nam, nhưng lại bị Nguyễn Nhạc đánh bại, nên phải trốn vào Gia Đi.nh. Ỏ đây chúa Nguyễn Phúc Thuần bị
tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ giết chết.

Lúc đó, Nguyễn Nhạc thấy quân Trịnh đang mạnh bèn hàng thuận để khỏi lo mặt Bắc, rồi tiến quân đánh chúa Nguyễn. Chiếm lấy đất Gia Định (1777).

Sau khi thắng miền Nam, Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, xưng hiệu là Thái Đức, lập kýnh đô ở thành Đồ Bàn năm 1778.

Còn ở Đàng Ngoài thì rối loạn. Cuối đời Trịnh Khải có loạn kýêu binh (1782). Nguyễn Huệ nhân dịp đó chiếm Thuận Hoá, rồi thừa thế tiến ra Thăng Long. Trịnh Khải bị thua phải tự tử. Thế là cơ nghiệp nhà chúa chấm dứt (1786).

Nguyễn Huệ trả quyền cai trị cho vua Lê Hiển Tông rồi rút quân về Nam. Lê Hiển Tông mất, cháu là Duy Kỳ nối ngôi, niên hiệu Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống nhu nhược, bất tài nên Trịnh Bồng lại ép vua để lập lại nghiệp chúạ Nguyễn Hữu Chỉnh từ Thanh Hoá ra giúp Chiêu Thống dẹp được Trịnh Bồng, rồi từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh cậy công mà chuyên quyền.

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đóng đô ở Thuận Hoá được tin Nguyễn Hữu Chỉnh áp chế vua Lê bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Chiêu Thống thấy Vũ Văn Nhậm đưa quân ra bắc thì sợ hãi rồi chạy trốn và gởi con sang Tàu cầu viện quân Thanh (1788).

Vũ Văn Nhậm ở bắc có ý phản nghịch, Bắc Bình Vương phải thân chinh ra bắt Nhậm giết đi, rồi trao quyền cai trị đất bắc cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm.

Các Chúa Trịnh ở Bắc Các Chúa Nguyễn ở Nam

Trịnh Tùng 1570 - 1623 Nguyễn Hoàng 1600 - 1613 Chúa Tiên

Trịnh Tráng 1623 - 1657 NguyễnPhúcNguyên 1613 1635 Chúa Sãi

Nguyễn Phúc Lan 1635 - 1648 Chúa Thượng

Trịnh Tạc 1657 - 1682 Nguyễn Phúc Tần 1648 - 1687 Chúa Hiền

Trịnh Căn 1682 - 1709 Nguyễn Phúc Trăn 1687 - 1691 Chúa Nghĩa

Trịnh Cương 1709 - 1729 Nguyễn Phúc Chu 1691 - 1725 Quốc Chúa

Trịnh Giang 1729 - 1740 Nguyễn Phúc Trú 1725 - 1738

Trịnh Doanh 1740 - 1767 Nguyễn Phúc Khoát 1738 - 1765

Trịnh Sâm 1767 - 17882 Nguyễn PhúcThuần 1765 - 1777

Trinh Cán 1782 - 1783 (làmm chúa được 2 tháng)

Trịnh Khải 1783 - 1786

Không có nhận xét nào: